Khi tòa tuyên án hai nhà báo, tôi đang ở
California, nơi mà 8 tháng trước, có 3 nhà báo chủ chốt của tờ Người Việt bị sa
thải vì đăng hình một cái chậu ngâm chân có in hình lá cờ vàng của chế độ Sài
Gòn cũ. Nhóm biểu tình đã dựng trại suốt 8 tháng trước trụ sở Người Việt
và gọi tờ báo “phản động” này cùng 3 nhà báo nói trên là “Việt Cộng”. Ở cái xứ
mà “quyền tự do ngôn luận” tưởng như không còn phải bàn cãi gì, nghề báo vẫn
phải đối mặt với những rủi ro như vậy.
Trở về Sài Gòn tôi ngồi viết entry “Hai nhà
báo và một lời xin lỗi”, lập tức một blogger chỉ trích là tại sao lại không gọi
phiên tòa ấy là “phường tuồng”. Tôi đã dự hàng trăm phiên tòa, đã viết hàng trăm
bài báo, đưa ra không ít quan điểm khác với các quan tòa, nhưng tôi không nghĩ
gọi một phiên tòa là “phường tuồng” thì sẽ đòi được “tự do ngôn luận”.
Năm tháng trước đây, khi Nguyễn Việt Chiến và
Nguyễn Văn Hải bị bắt giam, tôi đã cho rằng, báo chí trong vụ PMU 18 (trong đó
có hai anh) có lỗi nhưng không có tội. Vì, trong thời điểm mà những thông tin về
vụ án này được tung ra, các nhà báo này đã không biết rằng đó là những thông tin
“sai sự thật”. Khi không chứng minh được các nhà báo này mắc phải “lỗi cố ý”,
không thể buộc tội họ, cho dù có áp dụng tội danh “lợi dụng quyền tự do dân chủ”
(điều 258). Cũng trong entry ấy tôi nói thêm về điều 258. 15 năm trước, tôi đã
viết nhiều bài báo để đề nghị loại điều luật này (trong Bộ Luật cũ gọi là điều
205a) ra khỏi Bộ Luật Hình sự của Việt Nam vì sự lỗi thời cả về tính pháp lý và
cả về dân chủ.
Chính vì vậy mà tôi cho rằng, cách nhà báo
Nguyễn Văn Hải lựa chọn thái độ như vậy trước tòa là đúng mực. Nhiều người trích
câu nói trước tòa của anh: “Về cơ bản tôi thấy những nội dung của cáo trạng
và kết luận điều tra trước đấy kết luận về phần việc của tôi cũng là tương đối
khách quan và rõ ràng” để cho rằng anh đã “nhận tội” một mình. Nhưng, nghe
kỹ lại toàn bộ băng ghi âm ở phiên tòa sẽ thấy ngay sau đó anh nói với Tòa rằng,
nếu buộc anh tội ấy thì theo Luật, “phần cố ý (phải) từ phía tôi”.
Nhưng, “Tôi hoàn toàn không có một sự cố ý nào cả. Như chúng tôi thường gọi,
đó là tai nạn nghề nghiệp. Tôi xác định (những thông tin đó) là đã sai, đã đăng
trên mặt báo sai và mình phải chịu trách nhiệm nhưng trách nhiệm đến đâu thì
mong HĐXX xem xét giúp”.
Nhà báo Nguyễn Việt Chiến giữ một thái độ
trước Tòa cứng rắn hơn so với anh Hải. Chính các quan Tòa đã càng làm cho những
người theo dõi nhận thấy anh Chiến vô tội hơn khi cứ “tranh cãi” với anh Chiến ở
chi tiết “hàng chục” hay “bốn chục” quan chức đã “nhận tiền chạy án”. Anh Chiến
có băng ghi âm ghi lại lời một tướng công an đề cập đến con số “bốn mươi quan
chức” đó. Thẩm vấn công khai mà lại không cho phát bằng chứng (ghi âm) công
khai, làm sao Tòa có thể thuyết phục đó là công lý. So với nhà báo Nguyễn Văn
Hải, nguồn tin và nghiệp vụ của anh Nguyễn Việt Chiến rõ ràng là chắc chắn hơn,
những cuộn băng ghi âm mà anh Chiến lưu giữ được đủ cơ sở để khẳng định rằng anh
đã dựa vào nguồn tin thay vì cố ý đưa tin sai sự thật.
Tuy nhiên, việc anh Chiến có “nguồn” khi đưa
tin “bốn mươi quan chức nhận tiền chạy án” và việc, trên thực tế, có 40 quan
chức ấy hay không là hai vấn đề khác nhau. Con số “500 nghìn USD chạy án” và
“bốn mươi quan chức nhận tiền” được “xì” ra từ một báo cáo của “đặc tình” Nguyễn
Văn Nhuận. Nhuận được Ban Chuyên án “đánh” vào giam chung phòng với Bùi Tiến
Dũng để rồi sau đó gửi báo cáo cho tướng Quắc nói rằng, trong tù, Bùi Tiến Dũng
“tâm sự” với Nhuận rằng, Dũng đã chi nửa triệu đô để cho đàn em chạy án tới 40
quan chức. Bùi Tiến Dũng có ngu xuẩn tới mức kể cho bạn tù vanh vách số lượng
tiền bạc, tên tuổi những người nhận tiền, kể cả kế hoạch dùng tiền “đánh” vào
những quan chức cao cấp nào, giờ đây chỉ có Nhuận và Dũng biết. Tuy nhiên, theo
nguyên tắc, báo cáo của đặc tình chỉ là nguồn tin tham khảo, nếu muốn được coi
là tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì phải “chuyển hóa” thành chứng cứ, có thể
bằng cách hỏi cung Bùi Tiến Dũng. Trong tù, Bùi Tiến Dũng khai rằng ông đã không
hề nói gì với “đặc tình” của tướng Quắc (Cáo trạng).
Thế nhưng, ngay sau đó, các báo vẫn nhận được thông tin từ cơ quan điều
tra và nhà báo Nguyễn Việt Chiến là người viết bài “Bùi Tiến Dũng đã khai
đưa tiền chạy án cho gần 40 nhân vật quan trọng”. Kết án tướng Quắc và
thượng tá Huynh tội “cố ý làm lộ bí mật” đã càng làm cho dư luận tin rằng “bốn
mươi quan chức nhận tiền chạy án” là “một bí mật” thay vì được “tạo dựng” bởi
một người của tướng Quắc.
Nhà báo Nguyễn Việt Chiến viết tất cả 70 tin
bài về vụ PMU 18 chứ không chỉ có bài về “bốn mươi quan chức” này. Không chỉ có
anh Chiến, trong suốt quá trình vụ án diễn ra, 40 nhà báo đã viết 1200 bài báo.
Những bài báo mô tả lối sống ăn chơi sa đọa của các quan chức, đặc biệt là thứ
trưởng Nguyễn Việt Tiến, những bài báo nói về tình trạng tham nhũng ở các PMU.
Nhưng, kết quả điều tra, ngay khi Phạm Xuân Quắc chưa bị cho nghỉ hưu đã không
thu thập được một bằng chứng nào chứng minh tất cả những điều báo chí nêu là sự
thật. Nhiều bloggers, và nếu có một cuộc thăm dò dư luận có thể sẽ thấy, có rất
ít người tin rằng thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến vô tội và đã không có tham nhũng ở
các PMU. Bản thân tôi cũng không hẳn là tin, nhưng, sự thật là cả báo chí và
công an đều không hề có bằng chứng để củng cố cho niềm tin đó.
Và chúng ta cần phải tuân thủ “luật chơi” văn minh:
không thể coi ai đó là có tội khi không hoặc chưa có đầy đủ bằng chứng chứng
minh và chưa có một bản án có hiệu lực nói rằng người đó là tội phạm.
Tôi bắt đầu tường thuật các phiên Tòa lớn từ
năm 1989, nhiều lần chứng kiến những người, tôi tin là, không thực sự có tội vẫn
lãnh án tù. Chắc nhiều người vẫn còn nhớ vụ án Minh Phụng Epco và biết tính chất
vụ việc giữa Minh Phụng- Epco và Huy Hoàng là không khác gì nhau, nhưng chỉ vì
thái độ xử lý đối với 2 vụ án khác nhau mà số phận của hai người đã một trời,
một vực: Tăng Minh Phụng thì bị tử hình, còn giờ đây ông Lê Văn Kiểm, chủ của
Huy Hoàng nhận “anh hùng trong đổi mới”. Nhà văn Nguyễn Quang Vinh viết blog kể
lại 10 tháng tù oan của mình trong đó có dẫn một câu của viên giám thị trại
giam: “Đọc hồ sơ của anh em biết ngay là không có tội, chẳng qua mấy cha làm
theo ý trên”. Nếu tiến hành tố tụng giống như nhiều vụ án trước, Nguyễn
Việt Tiến chắc chắn đã phải lãnh án tù vì khi dư luận đã tin ông là tham nhũng,
“cứu” ông cũng rất dễ làm nảy sinh những rủi ro chính trị. Nếu như không có vụ
các nhà báo bị bắt, thì việc khi không có đủ chứng cứ để đưa thứ trưởng Nguyễn
Việt Tiến ra tòa, tha ông cũng nên được coi là một bước tiến về tự do, dân chủ.
Tự do ngôn luận cũng như dân chủ, cho dù ở
chính thể nào, thì cũng không phải là những thứ có thể được “trên ban”. Trong
những điều kiện khó khăn, nếu báo chí muốn tìm cách mở rộng giới hạn tự do thì
lại càng phải có sự trưởng thành về mọi mặt. Chúng ta định chống tham nhũng mà
mọi bằng chứng tham nhũng, nhà báo chỉ dựa vào công an. Khi công an ngưng lại
giữa chừng thì các nhà báo chỉ biết giật mình ngơ ngác. PMU 18 chỉ là một tai
nạn vì thực ra trong rất nhiều vụ khác, các báo cũng đã để cho phóng viên tác
nghiệp thế này. Nếu sự thật được phơi bày, sẽ còn có rất nhiều những PMU khác.
Lỗi do đó, không phải chỉ là ở Nguyễn Việt Chiến hay Nguyễn Văn Hải mà ở ngay
chính quy trình cho xuất bản 1200 bài báo này.
Chính vì thế mà tôi chia sẻ với những gì Hải
nói. Tôi không nhận thấy sự thay đổi ở nhà báo Nguyễn Văn Hải sau 5 tháng bị tù
như một số bloggers chỉ trích. Trước khi bị bắt Hải đã nhận thấy những sai lầm
của mình và các bạn nghề. Có lẽ là chính những bài báo viết sau khi anh vào tù
đã mô tả Hải như một người hùng để khi anh xuất hiện đúng như anh đã khiến cho
những quần chúng của anh thất vọng. Tôi biết, trong suốt quá trình vụ án xảy ra,
Tổng biên tập Lê Hoàng đã luôn có mặt bên Hải và gia đình anh trong những tình
huống khó khăn. Lê Hoàng cũng đã cư xử như vậy với những phóng viên bị kỷ luật
khác. Có thể anh làm điều đó vì nhận thấy, con đường dẫn tới những sai lầm về
mặt nghiệp vụ ấy không chỉ là Hải hay các cá nhân mà đó là những sai lầm của các
tòa soạn báo. Nhưng, anh và các tổng biên tập đã cho đăng 1200 bài báo ấy cũng
nên có những cử chỉ cần thiết với bạn đọc của mình. Tôi nghĩ là khi anh Hải nhận
trước tòa là mình sai lầm anh không chỉ nói với Hội đồng xét xử.