Ông Trần Du Lịch là Viện trưởng Viện Kinh tế Tp. HCM.
|
Ts. Trần Du Lịch (VNN) |
Xuất hiện dấu hiệu thiểu phát
-
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã có những tác động tương đối rõ
đến VN qua Thị trường chứng khoán, thị trường tài chính...Bình luận của
ông?
Ông Trần Du Lịch: Khủng hoảng tài chính toàn cầu đang bước sang giai đoạn suy thoái kinh tế toàn cầu - điều thế giới lo ngại nhất.
Với
nước ta, dấu hiệu ảnh hưởng trên 3 mặt. Thị trường xuất khẩu sẽ giảm.
Trong khi những nước có dấu hiệu giảm sút ít như Trung Quốc là nơi ta
nhập siêu thì những nước Việt Nam xuất siêu lại chịu ảnh hưởng mạnh của
khủng hoảng, do đó, xuất khẩu sẽ giảm.
Hai
là, giải ngân FDI sẽ bị tác động. Chúng ta cấp nhiều dự án, nhưng nhà
đầu tư có dự án mới huy động vốn. Khi thị trường tài chính như thế này,
không ai huy động nổi vốn. Nguy cơ giảm giải ngân đầu tư trực tiếp sẽ
rất lớn.
Thứ
ba, ảnh hưởng trực tiếp tới các quỹ đầu tư gián tiếp. Năm 2008, các quỹ
đầu tư chuyên nghiệp ở VN đều lỗ, có nơi lỗ tới 40-50%. Nguy cơ các quỹ
không những không bơm thêm tiền vào mà bán bớt là có. Điều này ảnh
hưởng trực tiếp tới TTCK.
Ba tác động này rất xấu tới tình hình kinh tế VN.
Chống
lạm phát ta làm vừa qua thành công, nhưng nguyên nhân sâu xa chưa khắc
phục được, như hiệu quả đầu tư thấp, năng suất nền kinh tế không tăng,
giá trị gia tăng thấp trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Những cái đó phải
lâu dài mới làm được. Do đó, nguy cơ lạm phát vẫn còn.
Tháng
10, chỉ số giá âm là dấu hiệu đáng mừng nhưng cũng cần nghĩ tới tình
trạng thiểu phát. Chúng ta cần có phương án trong trường hợp thiểu
phát. Giải pháp vĩ mô của ta phải có tính toán lại.
- Biểu hiện cụ thể của thiểu phát như thế nào?
Chỉ
số tăng giá tháng 9 là 0,18% đến tháng 10 là chỉ số âm, riêng Tp. HCM
-0,24%. Những yếu tố tăng giá đột biến của kinh tế thế giới hồi đầu năm
bây giờ đều giảm mạnh, tình hình thay đổi hoàn toàn. Đó là dấu hiệu
thiểu phát sẽ xảy ra.
- Theo ông, cần tính toán lại giải pháp vĩ mô ra sao?
Lãi
suất dù đã giảm nhưng vẫn còn cao. Những tháng cuối năm, nếu chỉ số giá
vẫn âm hoặc không tăng thì chúng ta phải nghĩ tới vấn đề kích cầu chứ
không phải là giảm cầu nữa. Ví dụ, kích cầu tiêu dùng.
|
Nguy cơ các quỹ không những không bơm thêm tiền vào mà bán bớt là có. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới TTCK |
Theo
tôi, ta cần "tương kế tựu kế", nhân dịp này đẩy nhanh "tam nông" giải
quyết vấn đề nông thôn, nông dân, kích cầu ở nông thôn, mở rộng thị
trường. Đồng thời, cần đẩy sản xuất tiêu dùng, đặc biệt hỗ trợ cho các
DN vừa và nhỏ để các DN này tồn tại trong điều kiện sắp tới này, để giữ
thị trường.
- Động thái giảm lãi suất cơ bản, nới lỏng dần chính sách tiền tệ, có tác động hạn chế thiểu phát như thế nào?
Ngày
21/10, ngân hàng trung ương đã đưa ra 3 chính sách liên quan tới nới
lỏng tiền tệ: giảm lãi suất cơ bản, hoàn trả hơn 20 ngàn tỉ trái phiếu
bắt buộc của ngân hàng thương mại và tăng lãi suất dự trữ.
Ba
chính sách này giúp cho các NH thương mại có điều kiện giảm chi phí và
tăng thanh toán tín dụng. Đây là dấu hiệu cho thấy chúng ta thực hiện
chính sách thắt chặt tiền tệ linh hoạt. Thời gian tới, lãi suất cần
giảm hơn nữa mới giải quyết được tình hình.
Quay đầu dòng vốn gián tiếp, chứng khoán cũng không tác động lớn
-
Có thông tin cho biết, khoảng 750 triệu USD đã bị rút ra khỏi thị
trường VN bằng cách bán trái phiếu có kì hạn. Các nhà đầu tư nước ngoài
bắt đầu chuyển tiền về nước để xử lý vấn đề khủng hoảng, khiến TTCK
Việt Nam tụt dốc tới đáy. Điều này ảnh hưởng như thế nào và chúng ta có
chống đỡ nổi không?
Tỷ
trọng đầu tư gián tiếp nước ngoài trong tổng quy mô TTCK Việt Nam không
phải quá lớn, chúng ta vẫn có giới hạn: cổ phiếu không quá 30%, trái
phiếu cũng có mức độ, là cơ sở an toàn cán cân ngoại hối của VN.
Ngay cả khi tình huống xấu nhất có thể xảy ra, "quay đầu dòng vốn" thì cũng không ảnh hưởng lớn đến thị trường tài chính VN.
Vấn
đề lớn chính là yếu tố tâm lý. Các nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam đa số
không chuyên, sẽ bị tác động tâm lý khi họ nhìn thấy động thái đó của
các nhà đầu tư nước ngoài.
Tín hiệu tâm lí tác động lớn hơn là bản thân việc rút vốn.
-
Gần đây, các ngân hàng VN rút vốn USD từ nước ngoài về để giảm rủi ro
do khủng hoảng tài chính. Một lượng vốn lớn về VN, ảnh hưởng như thế
nào tới thị trường tiền tệ?
Dự kiến và phản ứng của các ngân hàng thương mại như vậy là tốt, để tăng cung ngoại tệ cho thị trường ngoại hối trong nước.
Trong
trường hợp nếu ta giảm nhập siêu mạnh hơn và trong điều kiện giảm hai
nguồn cung vốn lớn là FDI và vốn đầu tư gián tiếp thì ta có thể cân đối
được, để Chính phủ đủ sức giữ tỉ giá theo ý muốn của Chính phủ.
|
Nếu ta kiên trì thực
hiện đúng 2 vấn đề: chính sách tiền tệ gắn với chính sách tài khoá một
cách cụ thể, ví dụ, giảm đầu tư công thực sự để nâng hiệu quả lên, sẽ
khôi phục ngay lòng tin của nhà đầu tư. |
Cần chuẩn bị cho phương án 2
-
Trong bối cảnh thị trường tiền tệ như hiện nay, cùng với tình hình
trong nước, là một chuyên gia kinh tế, theo ông, điều Chính phủ cần
quan tâm trong thời gian tới để giữ ổn định nền kinh tế là gì, ngoài 8
giải pháp mà Chính phủ đã đề ra?
Trước
hết, Chính phủ cần có một phương án mà như tôi gọi là phương án 2.
Phương án thứ nhất chính là phương án ta đang thực thi với 8 giải pháp
chống lạm phát. Phương án 2 là đặt trong trường hợp thiểu phát.
Hai
là, lâu nay chúng ta cân đối ngoại tệ bằng nguồn không ổn định: thâm
thủng thương mại lớn 19-20 tỷ USD được bù đắp bằng các nguồn tài chính
phi thương mại. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính những nguồn này
sẽ giảm đi. Do đó, phải chống nhập siêu mạnh để giữ thăng bằng cán cân
thanh toán. Chúng ta xuất khẩu ròng phải dương trong những năm tới.
Đến lúc phải kích cầu để tránh giảm phát Chuyên gia kinh tế - tài chính Trần Sĩ Chương: - Nguy cơ lạm phát triền miên không còn. Có chăng, Việt Nam đứng trước nguy cơ giảm phát, dù xác suất giảm phát không cao.
Chính sách thắt chặt tín
dụng, tăng lãi suất cơ bản để tiền kí gửi tăng nhiều, giúp các ngân
hàng giải quyết được nguy cơ mất tính thanh khoản nhất thời. Tuy nhiên,
thu vào nhiều mà không cho vay được do lãi suất cao sẽ tạo thành gánh
nặng cho các ngân hàng.
Đã đến lúc Việt Nam
cần tính đến biện pháp kích cầu manh, tạo điều kiện để DN tiếp cận vốn.
Để kích cầu thì phải kích cung để tạo cầu, phải tạo điều kiện để DN
tiếp cận vốn dễ hơn, rẻ hơn (lãi suất thấp hơn). Và cũng đừng quên phải
tích cực cải thiện môi trường kinh doanh để cung đến với cầu dễ hơn,
làm cho thị trường ngày càng năng động hơn.
Trong bối cảnh hiện nay,
nếu kéo dài chính sách hiện tại trong vài tháng tới, một số lớn các DN,
đặc biệt là các DN vừa và nhỏ sẽ bị liệt, không cầm cự được. Bây giờ,
các DN dân doanh này mới chỉ yếu đi vì thiếu ăn. Nếu can thiệp muộn,
các DN khó có thể vực dậy, hoặc ngay cả khi vực dậy được cũng sẽ èo
uột, yếu ớt, đuối sức. Khi có cơ hội vực dậy, họ cũng sẽ cần thời gian
để hồi phục.
Chúng ta đừng quên rằng
kinh tế dân doanh đóng góp 90% công ăn việc làm và khoảng 70% sản lượng
công nghiệp. Nếu không làm sớm và làm tốt, Việt Nam sẽ mất đi tầng lớp
doanh nhân năng nổ này, mất đi một chủ lực phục vụ cho công cuộc phát
triển, là một con đường còn rất dài trước mặt. |
|