Nguyễn Văn Huy
“…Mặc
cho các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam ra sức hô hào củng cố tình đoàn
kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện, người bạn Lào đang hướng về những
thế lực giàu có và hùng mạnh hơn Việt Nam…”
Cho tới một
ngày gần đây không ai nghi ngờ hay đặt lại quan hệ thắm thiết giữa hai
nước Việt Nam và Lào. Các cấp lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đã không
hết lời ca tụng và đề cao tình đoàn kết đặc biệt, sự hợp tác toàn diện
giữa hai nước.
Thật vậy, nếu theo dõi kỹ, từ sau khi Đảng Cộng Sản Đông Dương ra đời
năm 1930, quan hệ giữa các cấp lãnh đạo cộng sản hai nước trở nên gắn
bó, nếu không muốn nói là như một. Các cấp lãnh đạo cộng sản Lào được
sự giúp đỡ và đùm bọc của các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam như anh em
một nhà. Với một quan hệ gắn bó như thế ít ai nghĩ tới một ngày phải
chia tay, nhưng thực tế hiện nay ngày ấy đang đến gần.
Một chút lịch sử
Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-1954), theo
sự chỉ đạo của Đệ Tam Quốc Tế, đại hội Đảng Cộïng Sản Đông Dương lần
thứ hai (tháng 2-1951) quyết định thành lập ở mỗi nước một đảng cộng
sản riêng biệt, tuy độc lập với nhau về địa lý nhưng thống nhất với
nhau về chính trị và hành động trong phong trào Việt Minh. Phía Việt
Nam có Đảng Cộng Sản Việt Nam, phía Lào của đảng Pathet Lào (Đất Nước
Lào). Sau khi Lào được trả độc lập, năm 1956 ban lãnh đạo Pathet Lào
thành lập Mặt Trận Tổ Quốc Lào (Neo Lao Hak Xat) để tham gia chính
quyền, do hoàng thân Pethsarat (Sisavang Vong) lãnh đạo. Trong chính
quyền liên hiệp này, hai anh em cùng cha khác mẹ: Souphana Phouma (quốc
gia) và Souphanou Vong (cộng sản), thay phiên nhau cầm quyền. Liên minh
này chỉ tan vỡ năm 1962 khi đảng cộng sản Việt Nam quyết định tiến
chiếm miền Nam Việt Nam bằng võ lực. Lãnh thổ Lào vừa là đường giao
liên vừa là hậu cần của phe cộng sản miền Bắc xâm nhập vào Việt Nam, do
đó phải tích cực giúp đỡ đảng cộng sản Lào (Pathet Lào) chiếm chính
quyền bằng mọi giá. Từ đó quan hệ giữa hai đảng cộng sản Việt Lào trở
nên thắm thiết. Năm 1963, lực lượng Pathet Lào (thật ra bộ đội cộng sản
Việt Nam) chiếm cứ một vùng lãnh thổ rộng lớn phía đông bắc, gọi là
Cánh Đồng Chum, và phía đông dọc vùng biên giới miền Trung Việt Nam để
phe cộng sản miền Bắc sử dụng làm đường vận chuyển người và vũ khí vào
miền Nam, được biết dưới "đường mòn Hồ Chí Minh". Phần lớn nhân sự
trong lực lượng Pathet Lào là người Lào đồng bằng có cùng văn hoá với
người Thái và người Thượng sinh sống trên dãy Trường Sơn, gọi là Lao
Theung hay Kha (người miền cao, sơn cước).
Trong suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-1975), "đường mòn Hồ
Chí Minh" có lẽ là nơi bị tấn công và dội bom nhiều nhất. Số bộ đội
cộng sản và thanh niên xung phong miền Bắc bị chết trên đoạn đường này
nhiều bằng tổng số bộ đội cộng sản chết trên các chiến trường miền Nam,
trên 500 000 người. Để ngăn chặn bộ đội cộng sản miền Bắc di chuyển
trên con đường mòn này vào Nam, giới tình báo Mỹ (CIA) tuyển mộ và huấn
luyêïn người Hmong, sắc tộc thiểu miền núi sinh sống trên cao nguyên
phía tây bắc Lào, dọ thám và chỉ điểm cho không quân Mỹ ném bom. Tại
Lào, người Hmong miền tây bắc và người Lao Theung miền nam được hoàng
gia Lào tuyển dụng vào quân đội để ngăn chặn sự xâm nhập của quân
Pathet Lào vào lưu vực sông Mekong. Nói chung, trong suốt cuộc chiến
Đông Dương lần thứ hai, chỉ người Hmong và người Lao Theung trực tiếp
đánh phá lẫn nhau, trong khi người Lào đồng bằng chỉ lo làm thương mại
và công việc hành chính. Cuối cùng, phe cộng sản miền Bắc đã chiếm được
miền Nam và thống nhất đất nước. Tại Lào, phe cộng sản Việt Nam đã giúp
Pathet Lào lật đổ vua Savang Vatthana cuối năm 1975 và thành lập nước
Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào đặt dưới quyền lãnh đạo độc nhất của Đảng
Nhân Dân Cách Mạng Lào (Pathet Lào), mở ra một giai đoạn hợp tác toàn
diện với Việt Nam về an ninh quốc phòng, chính trị và quân sự ở mọi
cấp, từ trung ương đến địa phương. Nói cách khác, sự an ninh và ổn định
của Lào hoàn toàn nằm trong tay đảng cộng sản Việt Nam. Tình trạng này
kéo dài cho tới 1999, năm bộ đội cộng sản Việt Nam rút về nước.
Trong thời gian từ 1975 đến 1999, mọi ngõ ra vào lãnh thổ Lào, từ
phía sông Mekong hay dãy Trường Sơn đều bị kiểm soát gắt gao. Cộng đồng
người thiểu số Hmong vùng tây bắc bị phân biệt đối xử phải chạy sang
Thái Lan lánh nạn, số còn lại trốn lên vùng núi cao phía đông bắc sinh
sống bằng nghề trồng cây á phiện. Nhờ nguồn lợi này, người Hmong đã tự
trang bị vũ khí và sẵn sàng chống trả lại quân chính phủ.
Cũng nên biết năm 1977, Việt Nam và Lào ký một hiệp ước hữu nghị
và hợp tác toàn diện, nghĩa là hai nước là một. Quan hệ giữa hai nước
không chỉ giới hạn trong lãnh vực an ninh quốc phòng mà cả về kinh tế,
văn hoá và giáo dục. Tính đến nay, hai nước đã ký khoảng 40 hiệp ước,
hiệp định, thỏa thuận ở cấp cao trong mọi lãnh vực. Việt Nam đã tích
cực giới thiệu Lào vào ASEAN và giúp Lào tổ chức thành công hội nghị
thượng đỉnh ASEAN lần thứ 10 tại Vientiane tháng 11-2004, đồng thời bảo
trợ Lào tham gia vào tiến trình ASEM. Từ đó hai nước hợp tác chặt chẽ
trong việc tham gia các chương trình phát triển khu vực như Hợp tác
tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS), Hợp tác kinh tế chiến lược sông
Mekong (AMECS), Hành lang Đông Tây (WEC), Nhóm các nước Campuchia, Lào,
Myanmar và Việt Nam (CLMV), Tam giác phát triển gồm 7 tỉnh ngã ba biên
giới Việt Miên Lào, v.v.
Để phát triển đất nước, từ 1986 Lào ban hành một chính sách kinh
tế cởi mở mang tên Guồng Máy Kinh Tế Mới cho phép tư nhân kinh doanh và
người nước ngoài vào đầu tư. Chính trong giai đoạn này chính quyền Thái
Lan thiết lập quan hệ bình thường với Lào và giới tư bản Thái vào Lào
đầu tư. Gần như toàn bộ sinh hoạt kinh tế và khai thác tài nguyên thiên
nhiên dọc bờ tả ngạn sông Mekong nằm trong tay doanh nhân Thái. Từ thập
niên 1990 đến nay, chính quyền tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, đã tái lập
quan hệ ngoại giao và kinh tế với Lào, doanh nhân và di dân Trung Quốc
đã gần như tràn ngập vào các tỉnh tây bắc Lào (Phong Saly, Luong
Namtha, Oudomsay và Bokeo) định cư và khai thác tài nguyên thiên nhiên
(gỗ rừng và mỏ quặng).
Không có tiền khó giữ được bạn
Nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao
(1965-2007) và 30 năm hiệp ước hữu nghị hợp tác Việt Lào (1977-2007),
phía Việt Nam đã làm đủ mọi cách để nâng cao tình hữu nghị này với hy
vọng giữ mãi Lào trong tầm tay.
Tại Hà Nội, ngày 17-7-2007, tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, ông
Nông Đức Mạnh khai mạc buổi mít tinh chào mừng dịp kỷ niệm đó, cùng với
các nhân vật cáo cấp nhất trong chính quyền hay đã từng nám chính
quyền: cựu tổng bí thư Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, chủ tịch nước Nguyễn Minh
Triết, chủ tịch quốc hội Nguyễn Phú Trọng, chủ tịch quốc hội Nguyễn Văn
An, chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc cùng nhiều phó thủ tướng, bộ trưởng và bí
thứ thành uỷ, chủ tịch uỷ ban nhân dân Hà Nội. Phía Lào chỉ có phó chủ
tịch nước kiêm thường trực ban bí thư, ông Bunnhang Volachit, và một
vài thành viên trong phái đoàn đại biểu đến tham dự.
Tại Vientiane cùng ngày, Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào cũng tổ chức kỷ
niệm này, tổng bí thư kiêm chủ tịch nước Choummaly Souriya Sayasone đọc
diễn văn khai mạc. Phía Việt Nam có Trương Tấn Sang, thường trực ban bí
thư trung ương đảng cộng sản, và một số nhân vật trong đảng đại diện.
Mặc dù hai bên cố gắng nhắc tới tình đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn
diện giữa hai đảng và nhà nước, coi đây là qui luật tồn tại và phát
triển đất nước, là tài sản quí báu do lịch sử để lại, v.v., trong thực
tế quan tâm của những người lãnh đạo đất nước Lào hướng về những đối
tượng khác, vừa giàu có vừa hùng mạnh hơn Việt Nam: Trung Quốc, Thái
Lan, Nhật Bản, Nam Hàn và các quốc gia phát triển phương Tây.
Với một dân số hơn 6 triệu người sinh sống trên một lãnh thổ rộng 236
000 km2, trong đó 15% dân số tích cực tập trung vào những vùng thành
thị, phần lớn tài nguyên thiên của Lào chưa được khai thác đúng mức.
Đây là một nguồn lợi lớn mà giới đầu tư quốc tế mong được vào khai
thác. Do thiếu cơ sở hạ tầng về đường sá và cầu cống, phần lớn các
phương tiện di chuyển đều nằm trong tay người nước ngoài (Thái Lan,
Trung Quốc và Việt Nam), những người này chỉ chấp nhận chuyên chở hàng
hoá và tài nguyên mang lại nhiều lợi nhuận như gỗ quí, gỗ rừng lâu năm,
thú rừng, á phiện, đá quí, quặng mỏ hiếm, v.v.
Nhắc lại, trước khi thiết lập quốc hội thắm thiết với Việt Nam trong
suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2, quan hệ giữa người Lào và người
Thái rất là gắn bó, vì cả hai dân tộc có cùng văn hoá và ngôn ngữ.
Chính nhờ yếu tố này mà người Thái đã chiếm gần như trọn quyền khai
thác kinh tế và tài nguyên dọc bờ tả ngạn sông Mekong từ Vientiane đến
Pakse. Năm 1994 chiếc cầu hữu nghị đầu tiên (Mittaphap Bridge do Úc tài
trợ) bắc qua sông Mekong, dài 1 170 m, nối liền Vientiane với thành phố
Nong Khai của Thái được khánh thánh. Chiếc cầu thứ hai được khánh thành
năm 2006, nối liền Savannakhet với thành phố Mukdahan của Thái, trong
dự án xây dựng hành lang Đông-Tây nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ
Dương. Với hai chiếc cầu này, hàng hoá và tài nguyên giữa hai nước được
di chuyển qua lại dễ dàng.
Với hành lang Đông Tây này, người Lào không còn thấy tương lai của họ
lệ thuộc vào Việt Nam như trước. Lào là một quốc gia lục địa, không có
đường ra biển cả, tất cả mọi hàng hoá muốn nhập hay xuất qua đường biển
đều phải qua ngỏ Việt Nam, với rất nhiều khó khăn và tốn kém. Khi trục
lộ này hoàn tất, Lào có nhiều chọn lựa hơn: hàng hoá xuất nhập khẩu có
thể vận chuyển hoặc qua ngả Thái Lan hoặc Việt Nam tùy theo lợi ích
kinh tế. Cũng chính nhờ hành lang này mà Lào tiếp nhận thêm nhiều vốn
đầu tư đến từ nước ngoài, nhất là Nhật Bản, Đài Loan và Nam Hàn, nhờ đó
mức sống của người Lào được cải thiện hơn và mức sống cũng được nâng
cao.
Trong bối cảnh mới này, Việt Nam là quốc gia yếu kém nhất và vắng mặt
trên nhiều lãnh vực. Các cấp lãnh đạo Lào dành nhiều ưu tiên cho các
quốc gia gàu có và hùng mạnh hơn nhiều lần Việt Nam: Nhật Bản, Trung
Quốc, Đài Loan, Nam Hàn, Úc, Liên Hiệp Châu Âu, Hoa Kỳ, Thái Lan, v.v.
Hiện nay Nhật Bản, Trung Quốc và Thái Lan là ba quốc gia đầu tư lớn
nhất tại Lào, Úc chỉ đứng hạng thứ tư. Nhật Bản còn là quốc gia viện
trợ kinh tế nhiều nhất cho Lào, trong khi Thái Lan là quốc gia đứng đầu
về khối lượng hàng hoá nhập khẩu (64%) và cũng là khách hàng chính của
Lào với 20% lượng hàng xuất khẩu. Các chương trình truyền hình của Lào
đều do người Thái cung cấp, nhất là dân chúng Lào có thể bắt xem tất cả
các đài truyền hình của Thái một cách miễn phí, và nhờ đó chinh phục
được sự tin cậy của dân Lào vào Thái Lan. Khách du lịch mang ngoại tệ
đến cho Lào là người phương Tây: Mỹ, Pháp, Úc và các quốc gia ASEAN
giàu có (Thái Lan, Singapore, Indonesia, Malaysia).
Cố gắng đầu tư của Việt Nam trên đất nước Lào tập trung vào những lãnh
vực có tính kỹ thuật thấp như thuỷ điện, lâm nghiệp, khảo sát và khai
thác khoáng sản, vận tải, trồng cây công nghiệp (cà phê và cao su). Kim
ngạch thương mại giữa hai nước thuộc hạng thấp nhất so với các nước
khác: 45 triệu USD đầu thập niên 1990, 160 triệu USD vào đầu thập niên
2000, riêng năm 2006 là 260 triệu USD. Lãnh vực đầu tư chính của người
Việt trên đất nước Lào là nghề khai thác gỗ rừng xuất khẩu, một dịch vụ
đang bị dư luận thế giới lên án vì bất chấp môi trường.
Sự hiện diện của người Trung Quốc trong các tỉnh phía bắc Lào ngày
càng lộ liễu. Cũng nên biết, Trung Quốc là quốc gia đầu tư xây dựng hạ
tầng cơ sở giao thông của Lào từ đầu thập niên 1990: quốc lộ 13 và
đường xe lửa nối liền Bắc Nam.
Hiện nay di dân Trung Quốc dọc biên giới vào đất Lào khai hoang khẩn
đất rất đông và không hề bị kiểm soát. Nhà cửa của người Trung Quốc mọc
lên như nấm dọc các trục lộ giao thông Bắc Nam trong các tỉnh này. Lào
là quốc gia đứng vào hạng thứ ba về sản xuất thuốc phiện, sau
Afghanistan va Myanmar. Nhiều sòng bạc và khách sạn của người Trung
Quốc được thành lập để thu hút số tiền bẩn do thuốc phiện mang lại.
Những nhóm Hmong chống đối chính quyền cộng sản thân Việt Nam trước kia
được Trung Quốc giúp đỡ để trở về quê quán cũ canh tác, một số còn được
huấn luyện quân sự và trang bị vũ khí để tự bảo vệ khi bị chính quyền
Lào tấn công. Nói chung, gần như bốn tỉnh phía bắc Lào đang nằm trong
tay người Trung Quốc, với tất cả những hệ lụy của sinh hoạt mua bán hợp
pháp và bất hợp pháp.
Mặc cho các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam ra sức hô hào củng cố tình
đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện, người bạn Lào đang hướng về
những thế lực giàu có và hùng mạnh hơn Việt Nam. Lào đang vuột khỏi tầm
tay Việt Nam. Nguyễn Văn Huy
|