Lúc sinh thời, đại thi hào Voltaire đã đặc biệt đề cao giá trị quyền tự do ngôn luận qua câu nói bất hủ: “
Tôi có thể không đồng ý những điều anh nói, nhưng tôi có thể chết để bảo vệ quyền anh được nói những điều đó” (
I disapprove of what you say, but I will defend to the death your right to say it). Quyền được nói là một trong những quyền căn bản của con người, được khẳng định trong
Hiến chương Nhân quyền
của Liên hiệp quốc từ năm 1948 và hiến pháp của từng quốc gia thành
viên, trong đó có nước CHXHCN Việt Nam. Trong những hoàn cảnh đặc biệt,
quyền được nói được pháp luật bảo hộ: tử tù trước khi lìa đời, bị cáo
trước vành móng ngựa đều được nói lời cuối cùng.
Nếu như tại những quốc gia văn minh, quyền được nói là nhu cầu bình
thường của con người, thì tại các quốc gia chuyên chế lại là vấn đề xã
hội nhức nhối. Tuy nhiên, quy luật về nhu cầu con người đã khẳng định,
cái gì bị cấm, bị hạn chế thì sự ham muốn, thụ hưởng bị kích thích cao
nhất. Việt Nam là quốc gia được đánh giá có sự bùng nổ trên lĩnh vực
truyền thông báo chí. Chỉ cần nhìn vào số lượng trên 600 tờ báo viết,
67 báo hình và 63 báo nói, hàng chục báo điện tử đang hoạt động tại
Việt Nam, chúng ta thấy đánh giá trên là có cơ sở. Nhưng khi nghiên cứu
sâu, chúng ta không hề thấy bóng dáng tư nhân, báo chí do nhà nước kiểm
soát. So với y tế và giáo dục, báo chí là lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm,
đến nay vẫn chưa được xã hội hoá. Lịch sử Việt Nam đã từng chứng kiến
nhiều vụ án liên quan đến quyền được nói như vụ Nhân Văn - Giai Phẩm
(1958), vụ án xét lại (1967), vụ án Nguyễn Văn Lý (2007) và gần đây
nhất là hai nhà báo liên quan đến vụ PMU18 gây nhức nhối xã hội và dư
luận quốc tế. Nếu như vụ án Nguyễn Văn Lý làm cho chính quyền đau đầu
bởi hình ảnh cảnh sát tư pháp lấy tay bịt miệng phạm nhân, thì vụ án
hai nhà báo Nguyễn Văn Hải và Nguyễn Việt Chiến làm cho quần chúng bi
quan về tình trạng chống tham nhũng ở Việt Nam, lo ngại về quyền được
nói.
Gần đây, nhu cầu phản biện xã hội bùng phát mạnh ở Việt Nam. Trong số
những người lên tiếng phản biện, chúng ta thấy có cố Thủ tướng Võ Văn
Kiệt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhiều cán bộ cao cấp khác của Đảng
CSVN đã nghỉ hưu. Thực tế công tác quản lý xã hội, điều hành đất nước
trong thời kỳ đất nước hội nhập của đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng
nặng nề, đòi hỏi phải có sự tham gia của người tài, các tầng lớp nhân
dân. Vấn đề phản biện xã hội trở nên cần thiết và bức bách hơn lúc nào
hết đối với Đảng CSVN và đã được đưa vào văn bản Nghị quyết tại Đại hội
X. Ngày 3/7/2006, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức hội thảo về dự
án xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ, các tổ chức
xã hội và nhân dân. Hội thảo có sự tham gia của nhiều cựu quan chức cao
cấp, trong đó có nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu. Báo chí đã sôi nổi
đưa tin và động viên người dân đóng góp cho dự án. Phản biện có thể
đúng, có thể sai, nhưng là quyền được nói lên ý kiến cá nhân đối với
những vấn đề của đất nước, rất tiếc là đến nay quy chế này vẫn chưa
được thông qua. Tuy nhiên, đây cũng là tín hiệu mừng, tạo xúc tác cho
quyền được nói có sức sống. Để có được tín hiệu này từ phía chính
quyền, phải nhìn nhận có sự đóng góp của những đảng viên cao cấp của
đảng CSVN đã nghỉ hưu, của những nhà bất đồng chính kiến và các tầng
lớp nhân dân.
Một trong những trí thức kiên trì bảo vệ quyền được nói là TS Nguyễn
Thanh Giang, sinh năm 1936, quê Thanh Hoá, hiện nghỉ hưu ở Hà Nội. Nếu
như ông Lê Hồng Hà, một trong những nhà bất đồng chính kiến hàng đầu ở
Việt Nam không học hàm, học vị, được đánh giá là cây lý luận sắc sảo,
thì tiến sĩ địa vật lý Nguyễn Thanh Giang được đánh giá là cây viết
đáng kính trong phong trào dân chủ Việt Nam. Chỉ tính từ cuối năm 2006
đến nay, ông đã có 30 bài viết, lên tiếng chỉ trích mạnh mẽ chính quyền
về tự do dân chủ, về chính sách kinh tế, nhân sự cấp cao và quan hệ đối
ngoại. Về dân chủ, TS Nguyễn Thanh Giang cho ra đời hai cuốn sách khá
nổi tiếng là
Suy tư và ước vọng và
Nhân quyền và dân chủ ở Việt Nam.
Góp ý về chính sách quốc tế và đối ngoại, TS Nguyễn Thanh Giang có 16
bài viết gửi Đảng và Nhà nước Việt Nam; về đường lối, chủ trương của
Đảng CSVN có 22 bài viết. Năm 1992, lúc đó còn là chuyên viên kỹ thuật
tại Liên đoàn địa chất Việt Nam, TS Nguyễn Thanh Giang đã viết đơn tự
ứng cử đại biểu Quốc hội khoá IX, nhưng bị loại ngay vòng đầu. Đầu năm
1999, ông bị Công an Hà Nội bắt giam, thu giữ nhiều tài liệu dân chủ.
Sau khi ra tù, TS Nguyễn Thanh Giang cùng các các nhà bất đồng chính
kiến trong nước tiếp tục đấu tranh cho dân chủ, lên tiếng mạnh mẽ yêu
cầu Nhà nước cho phép ra đời báo tư nhân. Trong lúc chờ đợi ý kiến của
chính quyền, năm 2006, TS Nguyễn Thanh Giang là một trong những người
sáng lập báo điện tử
Tổ Quốc, tạo điều kiện cho anh em dân chủ
thực hiện quyền được nói. Với tư cách là Chủ nhiệm Ban biên tập, hai
năm qua TS Nguyễn Thanh Giang đã làm cho báo điện tử
Tổ Quốc
trở thành một trong những báo đối lập ôn hòa, có tri thức, góp phần
thúc đẩy tiến trình dân chủ Việt Nam, tạo sức sống cho quyền được nói.
Có thể nói, thời gian qua, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang đã cùng các nhà
trí thức tiến bộ trong nước như TS Nguyễn Xuân Tụ, ông Lê Hồng Hà, giáo
sư Phan Đình Diệu, TS Lê Đăng Doanh, nhà văn Lữ Phương, nhà thơ Bùi
Minh Quốc,… kiên trì bảo vệ quyền được nói, kiến nghị Đảng và Nhà nước
thực hiện quyền tự do ngôn luận. Tuy nhiên, đã có những lúc tưởng chừng
TS Nguyễn Thanh Giang không thể tiếp tục thực hiện quyền được nói của
mình bởi sự nghi kỵ, ganh ghét của một số anh em hoạt động dân chủ dạng
phong trào. Ông bị một số anh em quy chụp là dân chủ “cuội”, cơ hội,
tranh giành chức vụ trong phòng trào dân chủ, nhưng ông đã không nản,
tiếp tục cất lên tiếng nói của mình.
Gần đây, khi trả lời phỏng vấn đài RFA, TS Nguyễn Thanh Giang thẳng
thắn nêu vấn đề: Viện nghiên cứu phát triển Việt Nam (Intitutes
Development Studies - IDS) do TS Nguyễn Quang A đã được cấp phép hoạt
động thì tại sao báo
Tổ Quốc
lại không? Thế đấy, TS Nguyễn Thanh Giang là một nhà bất đồng chính
kiến kiên trì theo đuổi quyền được nói của mình, bất chấp sự o ép từ
phía chính quyền cũng như sư ganh ghét từ những nhà dân chủ phong trào.
Chúng ta có quyền tin tưởng rằng quyền căn bản của con người, quyền
được nói mà TS Thanh Giang đang góp phần bảo vệ nó cùng những nhà hoạt
động dân chủ khác, sẽ được thừa nhận trong tương lai gần.
Quyền được nói là bất diệt, luôn tràn đầy sức sống.