Nguyễn
Trung
I. Thị trường thế giới về nhôm
(aluminum)
Nhôm
(aluminum) là kim loại nhẹ, ngày càng
chiếm vị trí quan trọng kinh tế thế
giới. Năm 1991 kinh tế thế giới tiêu
thụ khoảng 24 triệu tấn nhôm, mười
lăm năm sau (2005) là 63 triệu tấn, hiện
nay là xấp xỷ 90 triệu tấn (số
tròn); xu thế này sẽ tiếp tục
duy trì, do có nhiều nền kinh tế mới
nổi lên – đặc biệt là Trung
Quốc –, và do nhôm ngày càng
thay thế nhiều loại vật liệu và
kim lọai khác nhờ tiến bộ khoa học
công nghệ và kỹ thuật. Tuy nhiên
thị trường nhôm dồi dào, vì
nguồn cung rất phong phú.
Trữ lượng
quặng bauxite trên thế giới rất lớn
(có thể là hàng trăm tỷ tấn)
so với nhu cầu khai thác và khả năng
khai thác, lại nằm rải rác nhiều
nơi trên thế giới, do đó dù
được coi là quý, nhưng nhôm
không phải là kim loại hiếm. Tương
tự như mặt hàng dầu lửa, giá
nhôm cũng dao động theo cung cầu và
theo biến động của tình hình
kinh tế thế giới; tháng 3-2008 giá
nhôm trên thị trường thế giới
là 3380 USD/tấn, đến tháng 10-2008 chỉ
còn 2850 USD/tấn.
Mặc dù
trong một hai thập kỷ gần đây sản
xuất nhôm trên thế giới tăng đều
trong biên độ từ 5 – 10%/năm, song
bản đồ sản xuất nhôm (hiểu
theo nghĩa nơi có lò luyện nhôm -
smelters) trên thế giới trong vòng hai, ba
thập kỷ nay có nhiều thay đổi
lớn: sản xuất giảm dần ở Tây
Âu, một số nơi ở Bắc Mỹ và
Bắc Thái Bình Dương, để
chuyển mạnh vào các vùng kém
phát triển hơn như Úc, Nam Thái
Bình Dương, Trung Quốc, Ấn Độ...
Nguyên nhân cơ bản của sự chuyển
dịch này là giá thành và vấn
đề bảo vệ môi trường.
Từ sự
thay đổi nói trên của bản đồ
sản xuất nhôm trên thế giới trong
nửa thế kỷ trước, người làm
chính sách của các tập đoàn,
nhà nước... và các nhà nghiên
cứu đã tổng kết:
Để đi
tới quyết định có sản xuất
nhôm hay không, cần đáp ứng thỏa
đáng những điều kiện sau đây
– xếp
theo thứ tự quan trọng của các yếu
tố:
-
có nguồn điện dồi dào,
-
có nguồn nước dồi dào,
-
nơi khai thác có vị trí và địa thế
hoang vắng thuận lợi cho giải quyết thỏa đáng vấn đề bảo vệ môi trường
(nước thải và bùn đỏ),
-
có khả năng giảm xuống mức thấp
nhất chi phí vận tải,
-
có trữ lượng bauxite dồi dào với
hàm lượng cho phép đạt 4/2/1 (4 tấn quặng làm ra 2 tấn alumina rồi từ
đó ra 1 tấn nhôm, nếu không giá thành sẽ quá đắt),
-
có nguồn lao động rẻ.
(Tài liệu tham khảo : [1] đến [6])
Bản
đồ các vùng giàu quặng bauxite
trên thế giới
Nguồn:
UC RUSAL - 2006
Ngoại trừ
vùng mỏ phong phú của Nga ở miền
Trung Uran và cũng là nơi sản xuất
chính về nhôm của quốc gia này
và một vài nơi trong các nước
CIS cũ (Liên bang các quốc gia độc
lập – bao gồm Nga và một số nước
trong Liên Xô cũ), việc khai thác
bauxite ở châu Âu hầu như đóng
cửa từ cách đây nhiều thập
kỷ. Trên thực tế chỉ còn lại
một số mỏ nhỏ và đang thu hẹp
dần ở Rumani, Hy Lạp, và vùng
Bankan... Trước đó nhiều nước
Tây Âu đã lần lượt đóng
cửa các mỏ than và quặng sắt,
mặc dù còn trữ lượng lớn,
song đã mất lợi thế so sánh
trong quá trình toàn cầu hóa kinh
tế.
Người
cung cấp quặng sơ chế alumina cho công
nghiệp nhôm ở châu Âu hiện nay
chủ yếu là Úc, Nam Mỹ và châu
Phi. Trong vòng hai thập kỷ nay, sản xuất
nhôm của châu Âu (trừ Nga) tăng
không đáng kể, thậm chí có
xu hướng giảm mạnh như ở các
nước Đức, Pháp, Ý, riêng ở
Anh từ nhiều năm nay không có số
liệu thống kê (có lẽ hoàn toàn
đóng cửa). Sản lượng nhôm
của các nước Tây Âu 18 tháng
vừa qua tiếp tục giảm đi 0,35 triệu
tấn, dự báo trong vòng một năm
tới sẽ giảm tiếp 0,3 triệu tấn.
Trừ các nước trong khối CIS cũ,
sản xuất nhôm của châu Âu hiện
nay đạt mức khoảng 8 triệu tấn/năm.
Bắc Mỹ đã kết thúc thời
đại hoàng kim công nghiệp luyện
nhôm của mình vào khoảng đầu
thập kỷ 1970, hiện nay sản xuất dừng
lại ở mức khoảng 7 triệu tấn/năm.
Nguyên nhân
chủ yếu khiến sản xuất nhôm ở
châu Âu chững lại và giảm là
do giá điện và vấn đề môi
trường.
Sản xuất
nhôm (aluminum) trên thế giới năm 2006:
Nguồn:
European Aluminum Association Report – 2008
Về
điện cho sản xuất nhôm
Để sản
xuất 1
tấn
nhôm từ quặng sơ chế alumina cần
khoảng 14.500 kwh đến 15.000 kwh để điện
phân, nghĩa là tương đương
với lượng
điện cho 1 gia đình trung bình dùng
trong 20 năm trời!
Riêng khối lượng điện hàng
năm tiêu thụ cho sản xuất nhôm
hiện nay trên thế giới còn lớn
hơn hoặc tương đương với
tòan bộ số lượng điện đang
tiêu thụ hàng năm của cả châu
Phi.
Giá CIF quặng
sơ chế alumina loại (12% bụi ceria) tại
cảng Trung Quốc có lúc lên tới
khoảng 447 - 540 USD/tấn, nay giảm nhiều (350
– 400 USD/tấn). Giá 1MWh
(1 triệu watt-giờ) ở Trung Quốc là 50
USD (nghĩa là 5 cent 1 Kwh).
Như vậy riêng chi phí cho 1 tấn nhôm
mất khoảng 1100 USD tiền nguyên liệu
và 700 – 800 USD tiền điện, chưa
kể chi phí sản xuất. Có thể nói
không cường điệu lắm: đối
với một số nước (điển hình
là Iceland) việc làm ra nhôm để
bán, thực chất một phần là cách
để bán điện (chiếm 30% giá
thành, thậm chí có thể hơn nữa
tùy theo giá điện mua được!).
Chuyên gia của
những tập đoàn sản xuất nhôm
lớn nhất nhì thế giới như RUSAL,
ALCOA, ALCAN... đưa ra ý kiến: nếu không
có giá điện khoảng 35 đến
40 USD/1MWh
(3,5 – 4 cent/Kwh) với đủ 6 yếu tố
để làm nhôm như đã nêu
trên, thì không thể nói là có
điều kiện lý tưởng để
sản xuất nhôm (Trung Quốc hiện đang
sản xuất nhôm với giá 5 cent/kwh).
Chính thực tế này cắt nghĩa tại
sao sản xuất nhôm tại các nước
Tây Âu đang giảm, phần còn được
duy trì chủ yếu là để phục
vụ công nghiệp sản xuất nhôm cao
cấp, hợp kim, nhất là các hợp
kim cao cấp. Ngay tập đoàn ALCOA hiện
nay có ½ công suất sản xuất
nhôm tại Texas phải đóng cửa vì
không chịu nổi giá điện. Ảrập
Thống nhất Emirat (EAU) đang dọa cắt hơi
đốt để sản xuất điện cho
lò luyện nhôm lớn nhất thế giới
(trị giá 5 tỷ USD) của tập đoàn
Rio Tinto đặt tại nước này, nếu
Rio Tinto không chấp nhận giá ga mới...
(EAU vừa giầu về năng lượng, nước
và có vị trí địa lý và
bờ biển có thể nói là lý
tưởng cho công nghiệp luyện nhôm).
Về
bùn đỏ
Quá trình
sơ chế bauxite để lấy alumina thường
để lại tối thiểu là ½
trọng lượng quặng đã khái
thác là bùn đỏ + khối lượng
nước nhiễm bùn này trong quá
trình tuyển rửa. Cả hai thành phần
này – bùn và nước nhiễm
bùn – vốn không thân thiện với
môi trường, lại tồn đọng các
hóa chất gây ăn mòn (đặc
biệt là soude caustic), khiến chúng trở
thành những vũng bùn lớn hầu như
không có loài vi sinh nào sống được,
hủy hoại bề mặt của đất và
các mạch nước ngầm, gây ô
nhiễm nặng nề cho môi trường. Gọi
loại bùn đỏ này là “bom
bẩn” không phải là hoàn toàn
vô lý. Cách
xử lý tối ưu là phải có
nơi chôn loại bùn và nước
thải này rồi phủ một lớp đất
dầy lên trên, để lấy lại mặt
bằng nơi khai thác và phủ xanh bằng
trồng trọt. Đó cũng là phương
thức đề phòng mưa gió chuyển
tải bùn đỏ loang ra khắp vùng
chung quanh, tuy nhiên vấn đề ô nhiễm
nước ngầm do mưa tạo ra thì chưa
có cách gì xử lý được
ổn thỏa. Việc hoàn thổ nơi khai
mỏ và chôn bùn như vậy rất
tốn kém, thường để lại những
cảnh quan loang lổ như những vết sẹo
lớn mầu nâu đỏ trên mặt đất.
Cũng vì lý do này, vị trí nơi
khai thác bauxite phải là những vùng
hoang vắng và xa các khu dân cư, xa
các nguồn nước nổi và nước
ngầm. Riêng vấn đề nhiệt độ
không khí gia tăng và bụi do mưa
gió cuốn đi khắp nơi chưa có
cách nào xử lý thỏa đáng.
(Tham
khảo thêm : [9], [10], v.v.)
Việc luyện
nhôm cũng gây ô nhiễm môi trường
không ít. Cùng với giá điện
đắt, đấy là 2 nguyên nhân
chính khiến nhiều lò luyện nhôm
ở Tây Âu và Bắc Mỹ tiếp
tục đóng cửa.
Ảnh 1 của
GEHO: Một bãi bùn đỏ ở sau khi
khai thác bauxite, Ấn Độ
Ảnh
2 của GEHO:
Bãi bùn đỏ Nalco
Damanjodi,
Ấn Độ,
(không
cỏ mọc, không một loại vi sinh, không
sự sống).
Tình
hình sản xuất nhôm ở Trung Quốc
Là “công
xưởng thế giới”, nhu cầu về
nhôm và sản xuất nhôm của Trung
Quốc trong vòng một thập kỷ nay tăng
đột biến. Trung Quốc chiếm khoảng
3% trữ lượng bauxite thế giới (có
tài liệu nói là 2,3%), song hiện nay
hàng năm tiêu thụ trên 10% sản
lượng nhôm của thế giới và
còn tăng nhanh trong những năm tới.
Nguyên nhân chính là bản thân
nền kinh tế khổng lồ Trung Quốc tăng
trưởng mạnh, đồng thời Trung Quốc
có chủ trương chiến lược
tranh thủ sự chuyển dịch công nghiệp
sản xuất ô-tô và máy bay vào
Trung Quốc để sớm trở thành một
cường quốc xuất khẩu hai mặt hàng
quan trọng này.
Liên tục
trong gần 2 thập kỷ vừa qua, sản lượng
nhôm của Trung Quốc tăng khoảng 6
-10%/năm trên cơ sở nhập xấp xỷ
50% nguyên liệu từ bên ngoài. Hiện
nay sản xuất nhôm trên lãnh thổ
Trung Quốc đạt khoảng 16 triệu tấn,
nhiều gấp đôi châu Âu, hoặc
bằng cả Mỹ và Tây Âu cộng
lại, chỉ đứng thứ hai thế giới
(sau Úc) và còn tiếp tục tăng
nhanh. Tập đoàn sản xuất nhôm lớn
nhất của Trung Quốc là CHALCO, đứng
thứ tư thế giới, mỗi năm sản
xuất khoảng 2,1 triệu tấn nhôm. Sự
xuất hiện của “con
rồng đói”
Trung Quốc (TMS - The Minerals, Metals & Materials Society,
Mỹ)
như vậy là một trong những nguyên
nhân quan trọng khiến cho giá alumina trong
vòng 10 năm nay từ 300 USD, lên 350 USD, có
lúc vọt lên 450 USD/tấn, nhưng hiện
nay đang giảm. Vì những
lý do trình bầy
trên, Trung Quốc đang thực hiện một
chiến dịch dài hạn và quyết
liệt: “chinh phục” các thị
trường bauxite trên thế giới. Sản
lượng nhôm hàng năm Trung Quốc đạt
được hiện nay nói lên sự
thành công của chiến dịch này.
Thị trường
cung cấp alumina cho Trung Quốc có thể nói
là dồi dào, người cung cấp chủ
yếu là Úc, châu Phi, Indonesia và
Nam Mỹ; riêng châu Phi có những mỏ
do Trung Quốc trực tiếp khai thác.
Ảnh
1:
Dòng suối Tịnh Tây, Quảng Tây –
trước khi khai thác bauxite
Ảnh
2: Tác động ô nhiễm môi trường
nơi khai thác bauxite tại Tịnh Tây,
Quảng Tây 10 - 8-2008
Suối
Tịnh Tây trong xanh trở thành suối máu
(Ảnh
do Dương Danh Dy sưu tầm).
Năng
lượng tiêu thụ cho
việc sản xuất
alumina,
nhôm. Nguồn:
China
Daily
April 8, 2008
Khó khăn
lớn nhất đối với Trung Quốc hiện
nay là môi trường nơi khai thác
bauxite bị ô nhiễm nghiêm trọng, nhiệt
độ không khí tăng lên và
tàn phá nghiêm trọng các vùng
chung quanh.
II. Được và mất đối với Việt Nam
trong việc khai
thác bauxite ở Tây Nguyên
1. Lựa chọn con đường phát triển nào cho
Việt Nam?
Đấy là
câu hỏi đầu tiên cần đặt
ra, trước khi cân nhắc nên hay không
nên, được và mất gì trong
việc khai thác bauxite tại Tây Nguyên.
Trước
hết, Việt Nam là một nước đất
chật người đông, tài nguyên
thiên nhiên đa dạng nhưng nhìn
chung không ra tấm ra món và nằm
không tập trung. Đặc biệt lại là
nước đi sau, với tình trạng kinh
tế nghèo và lạc hậu, có vị
trí địa kinh tế và địa
chính trị vừa rất thuận lợi
nhưng cũng rất nhạy cảm. Thực tế
này đòi hỏi phải cân nhắc
thấu đáo mọi bề trong việc lựa
chọn chiến lược phát triển.
Với một
dân cư 254 người/km2, Việt Nam có
mật độ dân số đứng sau Ấn
Độ (336/km2), gần ngang với Philippines
(277/km2), nhưng gấp hơn 5 lần mật độ
dân số cả thế giới (45,2 người/km2)
và gần gấp 3 lần mật độ dân
số châu Á (89/km2), cao hơn các nước
Trung Quốc (138/km2), Thái Lan (125/km2), Malaysia
(84/km2) là các quốc gia vừa có quan
hệ kinh tế mật thiết với nước
ta, vừa là các đối thủ cạnh
tranh...
Đất chật
người đông như vậy, đứng
sát nách cái “công xưởng
thế giới”, lại ở vào khu vực
kinh tế phát triển năng động nhất
thế giới, Việt Nam đứng trước
những thách thức rất lớn trong phát
triển và cạnh tranh kinh tế. Sau 32 năm
xây dựng trong hòa bình, trong đó
có 10 năm đầu khủng hoảng và
22 năm đổi mới, Việt Nam vẫn là
nước nghèo nhất so với các nước
ASEAN. So với Singapore, Malaysia và Thái Lan,
sức cạnh tranh của nền kinh tế nước
ta rất yếu và có khoảng cách
lớn – ví dụ: so với Thái Lan
hiện nay khoảng cách này có thể
là 20 năm, so với Malaysia và Singapore còn
xa hơn nữa.
Việt Nam cũng
bị Trung Quốc bỏ lại rất xa về
mọi phương diện, và trên thực
tế đang chịu sức ép rất lớn
nhiều mặt, đặc biệt là sức
ép của nền kinh tế Trung Quốc –
và điều này cũng là rất tự
nhiên.
Trong bối cảnh
như vậy, cuộc sống chỉ dành lại
cho Việt Nam câu hỏi để trả lời:
Trong tình thế này, ứng xử hay lựa
chọn con đường phát triển nào
là thông minh nhất cho Việt Nam?
Là nước
đi sau, đất chật người đông,
ở vào khu vực phát triển năng
động và cạnh tranh quyết liệt như
thế, dù lựa chọn con đường
phát triển nào, sản phẩm gì..,
để tồn tại được và trở
nên giầu có, kinh tế Việt Nam chỉ
có thể dựa trên (a)
phát huy nguồn lực con người và
(b) tìm cách làm ra ngày càng
nhiều của cải trên
đất nơi mình đang sinh sống.
Xin nhấn mạnh: Là bằng sản xuất
kinh doanh làm ra ngày càng nhiều của
cải trên
đất,
chứ không phải dưới
đất
– với nghĩa là đào
đất
(như khai thác khoáng sản) lấy
tài nguyên không tái tạo được
đem đi bán và bán luôn cả
môi trường tự nhiên, cả không
gian sinh sống.
Thực tế
khách quan khắc nghiệt của cuộc sống
đòi hỏi như vậy. Phát huy nguồn
lực con người để đẩy mạnh
làm ăn trên
đất
là con đường sống và phát
triển của nước ta, làm
gì cũng không được xa dời
nguyên lý này.
Nói một
cách hình ảnh, đấy là đòi
hỏi: Nước ta cần tìm cho ra một
chiến lược phát triển sao cho với
con người của mình, trên
mỗi thước vuông của đất nước
mình, có thể làm ra lâu
dài và ngày càng nhiều
của cải trong thế giới ngày càng
cạnh tranh quyết liệt này!
Chúng ta
không thể đào đất đem đi
bán – kể cả dưới hình thức
khai thác khoáng sản – để vừa
thu hẹp và vừa hủy hoại
không gian sinh sống vốn đã vô
cùng chật hẹp so với dân số nước
ta, lại vừa tạo ra cấu trúc kinh tế
giam hãm đất nước trong lạc hậu,
giữa lúc kinh tế ngày nay là của
thời đại khoa học công nghệ và
kỹ thuật, thời đại kinh tế tri
thức và thời đại toàn cầu
hóa. Than và dầu xuất đã quá
nhiều rồi, chẳng bao lâu nữa, có
thể ngay những năm đầu của thập
kỷ 2010, nước ta sẽ phải nhập
những thứ này.
Hơn nữa,
không phải chỉ đối với sản
phẩm bauxite, ở vào đầu thế kỷ
21 này, là nước đi sau, mà lại
chú trọng phát triển kinh tế nguyên
liệu, tạo ra cấu trúc kinh tế mang
nặng các sản phẩm thượng nguồn
– bất luận nó là gì: dầu
thô, than, sắt, gỗ, bột giấy,
xi-măng... – thì sẽ có nguy cơ:
Càng phát triển càng tụt hậu,
càng đánh mất hai lợi thế cạnh
tranh mạnh nhất, quý nhất, và cũng
là hai
lợi thế duy nhất nước ta có được: con
người và vị trí địa lý
kinh tế lý tưởng
(đồng thời cũng là vị trí
đầy thách thức đầu sóng
ngọn gió của các sức ép nhìn
theo địa kinh tế và địa chính
trị). Chưa
nói đến khai thác bauxite ở Tây
Nguyên, cơ cấu kinh tế nước ta hiện
nay đã đi quá sâu vào kinh tế
thượng nguồn và chưa chuẩn bị
được bao nhiêu cho phát triển kinh
tế hạ nguồn. Xu thế này rất nguy
hiểm và cần sớm được đảo
ngược.
Rồi đây,
vào khoảng 2020, 2050 mật độ dân
số nước ta còn cao hơn nữa, có
thể gấp đôi hiện nay. Rồi hiệu
ứng nhà kính vừa gây thiên tai
tàn phá, vừa thu hẹp diện tích
đất đai con người có thể sinh
sống của nhân dân ta, đòi hỏi
phải phát huy 2 lợi thế duy nhất nói
trên của đất nước sẽ càng
trở nên gay gắt hơn. Ngày hôm nay
đã phải bắt đầu chuẩn bị
cho tình huống này, ngày hôm nay
càng không được phép tạo ra
hay chồng chất thêm những khó khăn
mới cho tình huống này!
Vì ngay từ
đầu chậm nhận thức ra hai lợi thế
duy nhất này của đất nước,
cho nên thành tựu phát triển kinh tế
đất nước đạt được 32
năm qua dù là rất to lớn nếu đem
ta ra so với ta, song vẫn là nhỏ và
là quá chậm, nếu so với những
gì nhiều quốc gia khác đã làm
được trong cùng một chiều dài
thời gian như vậy (Trung Quốc, Hàn
Quốc, Đài Loan...), hoặc so với đòi
của bảo toàn độc lập chủ
quyền và an ninh quốc gia. Đất nước
vẫn đang đứng trước thực tế:
Càng phát triển, khoảng cách nhiều
mặt giữa nước ta và những nước
cần so sánh (TQ, HQ, ĐL, TL...) đang rộng
thêm mãi ra, nguy cơ tụt hậu đang
tăng lên chứ không giảm đi.
Với đỉnh
cao đạt được năm 2007, nước
ta đã hoàn thành thời
kỳ phát triển kinh tế theo chiều rộng.
Trong tình hình như vậy mà tiếp
tục đi sâu vào kinh tế nguyên
liệu thì có nghĩa là tự mua dây
thắt cổ mình, bởi vì các yếu
tố để tiếp tục phát triển
theo chiều rộng đã được khai
thác tới ngưỡng không cho phép
vượt qua. Tình hình này thể
hiện ở chỗ kinh tế từ một thập
kỷ nay tăng trưởng mạnh nhưng chậm
phát triển, hiệu quả kinh tế thấp,
cấu trúc kinh tế thay đổi rất
chậm; những ách tắc hay sự hẫng
hụt lớn của chất lượng nguồn
nhân lực, kết cấu hạ tầng và
năng lực quản trị quốc gia ngày
càng gia tăng. Nhìn theo góc độ
này, lạm phát từ sau quý I-2008 vọt
lên 2 con số ngoài việc là hệ
quả của những yếu kém kinh tế vĩ
mô còn là sự cảnh báo rõ
ràng về cái ngưỡng không được
phép vượt qua vừa nêu trên.
Tình hình
hiển nhiên đã chín muồi: kinh tế
đất nước phải chuyển sang một
giai đoạn phát triển cao hơn –
giai đoạn phát triển theo chiều sâu,
chủ yếu dựa trên phát huy nguồn
lực con người và khai thác hội
nhập. Tiếp tục phát triển theo chiều
rộng như vừa qua sẽ đi tới đổ
vỡ. Đất nước đang đứng
trước ngã ba đường: Hoặc là
chuyển sang phát triển chủ yếu theo
chiều sâu để tiếp tục con đường
công nghiệp hóa hiện đại hóa
theo hướng trở thành một nước
phát triển, hoặc đi sâu vào con
đường phát triển hiện tại
dựa trên lao động giá rẻ và
khai thác tài nguyên để trở
thành một Philippines mới trong khu vực với
mọi hậu quả khôn lường (tham khảo
thêm bài “Ngã
ba 2007”
của Nguyễn Trung, VietnamNet, 25-12-2007).
Lựa chọn
con đường phát triển theo chiều
sâu chủ yếu dựa trên phát huy
nguồn lực con người và khai thác
hội nhập, thì không thể lựa chọn
đi sâu vào kinh tế nguyên liệu,
càng không thể đi vào khai thác
bauxite ở Tây Nguyên như đang bắt
đầu tiến hành. 2. Còn phương án phát triển nào tốt hơn
cho Tây Nguyên?
Với cách
nhìn vấn đề nêu trong câu hỏi
1, logic tiếp theo là phải đặt ra câu
hỏi 2: Ngoài
khai thác bauxite, còn phương án phát
triển kinh tế nào tốt hơn cho Tây
Nguyên không?
Đã có
nhiều tài liệu nói về tiềm năng
kinh tế to lớn của Tây Nguyên và
tầm quan trọng đặc biệt của nó
đối với an ninh quốc phòng của cả
nước. Điều
này cũng có nghĩa là Tây Nguyên
rất nhạy cảm đối với an ninh quốc
phòng của cả nước. Kiến nghị ngày 05-11-2008 của các
nhà khoa học và làm công tác
nghiên cứu gửi lãnh đạo Đảng
và Nhà nước đề nghị tạm
dừng khai thác bauxite ở Tây Nguyên,
báo cáo của tiến sỹ Nguyễn
Thành Sơn "Những
sai lầm chiến lược và những rủi
ro hiện hữu trong việc phát triển các
dự án bauxite trên Tây Nguyên của
VN",
tham
luận của nhà văn Nguyên Ngọc,
và
nhiều tham luận khác tại hội thảo
Gia Nghĩa - Đắc Nông ngày 22 và
23-10-2008 đã nêu lên những lý
lẽ xác đáng, xin miễn cho việc
nhắc lại.
Dưới đây
xin lưu ý thêm một số đặc
thù của Tây Nguyên để góp
phần vào việc tìm hướng đi
cho vùng này.
Lựa chọn
hướng phát triển Tây
Nguyên xanh
có lẽ là thích hợp nhất cho
việc phát huy các tiềm năng của
Tây Nguyên, tạo khả năng phát
triển bền vững và gìn giữ môi
trường, gìn giữ nguồn nước –
không những không thể thiếu được
để nuôi sống con người và tự
nhiên toàn vùng Tây Nguyên, mà
còn có lợi cho cả toàn vùng
chung quanh, riêng phía Nam xuống tận miền
Đông Nam Bộ. Vì vậy: Khai
thác khoáng sản ở Tây Nguyên mà
không bảo toàn được Tây
Nguyên thì có thể nói đến
mức: Cướp như thế và mang đi
bán dù chỉ là một nhát cuốc
đất của Tây Nguyên, là cuốc
lộn Tây Nguyên lên đem bán cho
nước ngoài, để lại trong nước
gánh chịu mọi hệ quả!
Mong
rằng lương tri đủ tỉnh táo để
đánh giá việc làm này.
Ngoài Đà
Lạt, Tây Nguyên còn một số các
địa điểm có độ cao và
địa hình tương tự như Đà
Lạt, có thể cho phép tạo ra trên
Tây Nguyên có thêm một hay hai Đà
Lạt mới, ví dụ như Mang Đen
(Komplong, Kontum), mở rộng Đà Lạt ra
Đan Kia vân... vân... Rất nên tiến
hành khảo sát kỹ những nơi có
độ cao từ 800-1000m trở lên trên
Tây Nguyên để làm rõ tiềm
năng này. Nếu tìm ra Tây Nguyên
có thêm một hay hai Đà Lạt mang
khi hậu ôn đới, tìm ra nhiều điểm
cao khác dù là diện tích nhỏ
hơn cũng có điều kiện khí
hậu ôn đới như thế, phải nói
đấy sẽ là nguồn của cải vô
cùng giầu có và lợi thế đặc
biệt được tạo hóa ban cho nước
ta, để làm giàu cho Tây Nguyên
và cho cả nước, giầu về của
cải cũng như về văn hóa. Những
vùng hay điểm ôn đới như thế
ở Tây Nguyên sẽ là độc nhất
vô nhị trong toàn khu vực Đông
Nam Á, cho phép nhân dân ta đem trí
tuệ và tài năng của mình phát
huy lợi thế này tạo thành những
trung tâm của giáo dục đại học,
nghiên cứu khoa học, an dưỡng, du lịch
và các dịch vụ khác của cả
nước và toàn khu vực – đúng
với nghĩa làm
giàu trên
đất.
Như vậy Tây Nguyên chẳng những sẽ
tạo ra sức hấp dẫn cho chính mình
mà còn cho cả nước, bảo tồn
và làm giầu văn hóa Tây Nguyên
và cả nước, có sức hấp dẫn
đối với toàn khu vực và trên
thế giới. Như vậy đất nước
ta sẽ có thêm một cầu nối kinh
tế và văn hóa rất quan trọng để
đi vào kinh tế dịch vụ, kinh tế
tri thức và hội nhập.
Điều cần
đặc biệt quan tâm là sự tàn
phá môi trường diễn ra đến
nay ở Tây Nguyên đã vượt quá
mức cho phép. Riêng Lâm Đồng có
67 nghìn ha rừng thông thì đã
bị chặt sạch 52 nghìn ha với lý
do thông già, mà lẽ ra chỉ nên
khai thác tỉa bỏ những cây có
bệnh và đồng thời phải trồng
bổ sung để bảo toàn lá
phổi
của Tây Nguyên. Ngày nay chỉ cần
thêm một bước đi sai nữa, một
quyết định sai, một quy hoạch sai dù
là nhỏ trên Tây Nguyên, thậm chí
dù chỉ ở một huyện hay một tỉnh,
là hoàn toàn có thể hủy hoại
toàn bộ triển vọng phát triển
nói trên của Tây Nguyên, đồng
thời gây tác hại cho các vùng
lân cận . Xảy chân một bước,
mang hận nghìn đời! Hệ quả không
thể lường hết được. Xin đừng
đánh giá thấp nguy cơ này.
Hiển nhiên
là một thiếu sót lớn không thể
bỏ qua là: Cho đến hôm nay Nhà
nước ta vẫn chưa có một chiến
lược phát triển Tây Nguyên được
xây dựng theo hướng đi của thời
đại, trên cơ sở những thành
tựu khoa học và công nghệ mới
nhất của văn minh nhân loại, cũng
như trên cơ sở nhận thức đầy
đủ những nguy cơ mới của biến
đổi khí hậu và môi trường,
những thách thức và cơ hội của
hội nhập vào nền kinh tế thế
giới đầy biến động trong quá
trình toàn cầu hóa hiện nay.
Chưa có
một chiến lược tổng thể với
cách nhìn như vậy cho phát triển
Tây Nguyên mà đã đi vào
khai thác bauxite ở Tây Nguyên thì
không khác gì hôm nay bắt đầu
chặt đứt tương lai phát triển
của Tây Nguyên.
Vì những
đặc thù nổi bật và tầm
quan trọng như vậy, phát triển Tây
Nguyên là nhiệm
vụ của cả nước,
phải do chính quyền Trung ương (Nhà
nước) trực tiếp nắm lấy, phân
cấp gì cho địa phương cũng
phải trong khuôn khổ chiến lược
phát triển do chính quyền Trung ương
xây dựng với tinh thần vừa nêu
trên, phân định rõ Trung ương
(cả nước) phải làm gì và
từng tỉnh Tây Nguyên phải làm
gì. Không
thể khoán trắng cho các tỉnh để
duy trì một Tây Nguyên phát triển
trên cơ sở các nền kinh tế
“GDP-tỉnh” và bị chi phối bởi
tư tưởng “nhiệm kỳ”, manh
mún, mạnh ai nấy làm, mỗi tỉnh
một kiểu như hiện nay.
Không thể lại thêm mỗi ngành hay
mỗi tập đoàn bất kể từ đâu
đến ngày đêm xâu xé vùng
này năm này qua năm khác... Đấy
là chưa nói đến vấn đề
di dân tự do, nạn phá rừng đang
diễn ra không ngừng trên Tây Nguyên...
Không có
Tây Nguyên của Kon Tum, Gia Lai, Đắc
Lắc, Đắc Nông hay Lâm Đồng,
mà chỉ có Tây Nguyên của cả
nước, Tây Nguyên của Việt Nam!
Càng không thể có Tây Nguyên
của một ngành hay tập đoàn nào.
Hơn
nữa, phát triển Tây Nguyên cần
bàn bạc kỹ với tất cả các
tỉnh chung quanh.
Một
lần nữa xin nhấn mạnh: Sự thật là
nước ta thiếu hẳn một chiến lược
phát triển đúng đắn làm
nền tảng và căn cứ cho chiến lược
tổng thể phát triển Tây Nguyên.
Không thể kéo dài sự chậm trễ
này nữa. Chiến lược Công nhiêp
hóa – hiện đại hóa như đã
đề ra và đang theo đuổi vừa
còn nhiều điểm chưa rõ, vừa
không thích ứng với tình hình
mới: Đất
nước đã kết thúc một giai
đoạn phát triển, tình hình kinh
tế và chính trị thế giới có
nhiều thay đổi lớn mang tính một
bước ngoặt.
3. Nhận xét về các dự án khai thác
bauxite đang triển khai
Ngoài những
nhận xét đã nêu trong Kiến nghị
ngày 05-11-2008 và trong Hội thảo Đắc
Nông, dưới đây xin trình bầy
thêm một số khía cạnh.
Nét chung
nhất là việc quyết định khai thác
bauxite ở Tây Nguyên không
được cân nhắc theo 6 yếu tố
đã được đúc kết ra từ
kinh nghiệm khai thác bauxite trên thế giới.
Chủ trương tiến hành khai thác
bauxite ở Tây Nguyên thực ra chủ yếu
chỉ dựa trên hai yếu tố cuối cùng
và có tầm quan trọng thấp nhất:
có quặng, có lao động rẻ; 4 yếu
tố đầu quan trọng hơn và mới
thực sự là những yếu tố quyết
định thì chỉ được xem xét
để cho qua, thực tế là bỏ qua.
Có thể
khẳng định từ nay đến năm 2020
– 2025 nước ta không thể có điện
cho sản xuất nhôm, cho dù đến lúc
đó có thể đã có điện
hạt nhân. Ngay trước mắt, kể cả
trường hợp 13 dự án điện tập
đoàn EVN “nhả ra” với lý
do thiếu vốn vẫn được các
tập đoàn khác cáng đáng,
khó có thể nói đến năm
2020 ta có thể đáp ứng đủ
yêu cầu về điện của cả nước
– chưa tính đến chuyện điện
cho luyện nhôm ở Tây Nguyên.
Giả định
rằng kiên quyết đầu tư một số
công trình điện thủy lợi hay
nhiệt điện chỉ để cho phục vụ
riêng cho luyện nhôm ở Tây Nguyên
thì khó mà đạt được
yêu cầu 5 cent (USD)/kwh với một lượng
điện dồi dào để có thể
cung ứng dù chỉ cho một
(1)
lò luyện nhôm, công suất tối
thiểu phải có là 100.000 tấn/năm,
nghĩa là ít nhất cần phải có
khoảng 1,5 tỷ kwh cho luyện một lò như
vậy – tương đương với 1/6
hay 1/5 công suất một năm của nhà
máy thủy điện Hòa Bình. Điều
này có nghĩa để sản xuất ra
khoảng một nửa triệu tấn nhôm,
phải đầu tư riêng cho điện ước
khoảng 2 – 2,8 tỷ USD theo tính toán
hiện nay của EVN với giá 1kw cho thủy
điện là 1500 USD và cho nhiệt điện
là 1200 USD. Tổng sản lượng điện
cả nước làm ra năm 2007 là 58,4
tỷ kwh, chỉ vừa đủ sản xuất
ra gần 4 triệu tấn nhôm. Vào khoảng
năm 2015 trở đi Việt Nam sẽ là
nước nhập than và dầu, chẳng lẽ
chỉ để cho sản xuất alumina? – chứ
không phải nhôm! Lò luyện nhôm
công suất dưới 100.000 tấn giá
thành sẽ tăng vọt, rất khó cạnh
tranh trên thị trường. Nếu có một
lượng điện như thế ở Tây
Nguyên thì dùng vào việc khác
sẽ làm ra nhiều của cải hơn. Là
nước đi sau, bây giờ mới tham gia
thị trường nhôm với tư cách
là nước xuất khẩu, tối thiểu
nước ta phải có sản lượng
nhôm hàng năm từ 0,5 đến 1 triệu
tấn thì mới trụ được; nghĩa
là chỉ riêng về điện ta sẽ
cần có thêm từ 1 đến 2 nhà
máy thủy điện Hòa Bình chỉ
để phục vụ cho mục đích này.
Có nên không? Có khả thi không?
Tất cả
những điều vừa trình bày cho
thấy từ nay đến năm 2020 hoặc 2025
ta không có khả năng tự sản xuất
100.000 tấn nhôm có hiệu quả kinh tế
cao và cạnh tranh được trên thị
trường. Nghĩa là, nếu bây giờ
quyết khai thác bauxite Tây Nguyên, thì
mãi cho đến năm 2020-2025 ta chỉ có
khả năng làm ra alumina để xuất
khẩu, và phải gác lại dài hạn
hơn mơ ước trở thành quốc gia
xuất khẩu nhôm. Như vậy, nguy cơ
nhãn tiền là chiến lược sản
xuất nhôm xuất khẩu vào năm
2020-2025 có thể sẽ bị gián đoạn
hẳn, hoặc phải dừng lại trong thời
gian chưa tính toán được ở
khâu sản xuất ra alumina, với những hệ
lụy không tưởng tượng được
cho đất nước.
Một bài
toán nữa chưa có lời giải là
vấn đề nước ở Tây Nguyên
cho bauxite: Lấy ở đâu? và xử lý
nước bùn thế nào ở nơi cao
và có độ dốc lớn? Các
thông tin về công nghiệp nhôm trên
thế giới cho thấy tùy công nghệ
sử dụng, lượng nước cần thiết
cho chế biến được 1 tấn alumina
thông thường là 24 m3 – nếu có
lắp đặt thêm công nghệ tái
tạo lại nước đã sử dụng
thì có thể giảm xuống còn 6
m3. Công nghệ được sử dụng tại Aughinish / Ireland được coi là hiện
đại nhất cho đến nay, sử dụng
khoảng 3 m3 / 1 tấn alumina (tham khảo : [5]).
Nhiều
mỏ bauxite tại Trung Quốc gây ô nhiễm
môi trường trầm trọng do không xử
lý tốt vấn đề nước bùn,
nên đã có những sông suối
mang mầu đỏ mà chính báo chí
Trung Quốc gọi đó là những sông
suối “máu”. Một
số vấn đề khác có liên
quan: Giả thiết ta chỉ sản xuất alumina Hiệu quả
kinh tế đầy nghi ngờ
Hiện nay, sản
xuất ra một tấn alumina (quặng bauxite sơ
chế) cần phải có khoảng một tấn
than; điều này có nghĩa phải
chuyển một lượng than lớn lên Tây
Nguyên, đi bằng đường nào?
Hoặc phải có một lượng điện
tương ứng. Nếu
tính đủ cả chi phi cho đầu tư
kết cấu hạ tầng, chi phí hoàn
thổ và phục hồi môi trường
đúng với yêu cầu mà cấu
tạo địa hình Tây Nguyên đòi
hỏi sau khi khai thác,
liệu giá thành sản xuất alumina của
Tây Nguyên có thể giữ được
khoảng 300 – 350 USD/tấn (giá FOB) hoặc
thấp hơn nữa để đứng vững
được trên thị trường hay
không?
Muốn đạt
giá thành trên, ngoài tổng chi phí
cho khai thác, hàm lượng nhôm trong
quặng phải đạt công thức 4/2/1.
Giả thiết rằng hàm lượng nhôm
trong quặng thấp, ví dụ có thể
là <4/<2/1, giá alumina đem bán sẽ
rất rẻ và khó bán – vì
giá thành luyện ra nhôm sẽ tăng
cao.
Hơn thế
nữa, alumina của ta làm ra ai sẽ mua? Ta
không thể đem alumina bán cho Tây Âu
và Bắc Mỹ được vì xa quá,
cước phí vận tải tốn kém
và ở đấy sản xuất nhôm đang
bị thu hẹp. Nhật Bản là nước
nhập nhôm (chứ không phải là
alumina) để tiêu dùng, để luyện
nhôm tinh khiết và chế tạo các
hợp kim cao cấp khác.
Nhìn quanh
ta: Cường quốc xuất khẩu nhôm là
New Zealand, đạt kim ngạch khoảng 1,5 tỷ
USD – tương đương với xuất
khẩu thủy sản của nước ta, song đã
có nguồn nhập alumina ổn định từ
Úc, giá cả có sức cạnh tranh
và chất lượng cao. Thái Lan chỉ
có công nghiệp nhôm tái sinh từ
sản phẩm nhôm đã dùng (recycle),
các nước ASEAN còn lại hầu như
chưa có công nghiệp luyện nhôm
đáng kể và không phải là
các quốc gia nhập khẩu alumina. Như vậy
hầu như chỉ còn Trung Quốc là
quốc gia duy nhất trong khu vực Đông Nam
Á nhập alumina và có rất nhiều
đầu mối trên thế giới để
nhập với khối lượng lớn, giá
cả cạnh tranh.
Tình hình
cho thấy, nếu ta quyết định sản
xuất ra alumina, nước ta có thể sẽ
rơi vào tình thế: Thị trường
quanh ta chỉ có một người mua là
Trung Quốc, trong khi đó người bán
rất nhiều và đều mạnh hơn ta
(Úc, châu Phi, Nam Mỹ...). Thực tế này
sẽ tạo ra cho alumina của ta sự lệ
thuộc nguy hiểm.
Giả thử
rằng quyết định vào năm 2020 –
2025 nước ta mới bắt đầu đi
vào công nghiệp nhôm, có thể
lúc đó – nhờ sự phát
triển mọi mặt của đất nước
và những tiến bộ mới của khoa
học kỹ thuật và công nghệ –
tình hình sẽ cho phép nước ta
một sự lựa chọn khác: đi thẳng
vào công nghiệp nhôm cao cấp (nhôm
tinh khiết, các hợp kim quý...), trên
cơ sở nguyên liệu nhập hay tại
chỗ, với những điều kiện kinh tế
và những điều kiện thân thiện
với môi trường có lợi hơn
rất nhiều so với hiện nay. Nghĩa
là lúc này vội vã hay nôn
nóng là tự ăn vào chính mình!
Một ví dụ cụ thể, ngay bây giờ,
giữa lúc người làm dự án
khai thác bauxite Tây Nguyên dự định
tạm thời vận tải alumina xuống biển
bằng đường ô-tô, trong đầu
mới chỉ có ý tưởng sẽ vận
chuyển alumina bằng đường sắt,
nhưng chưa có quy hoạch và thiết
kế khả thi cho đường sắt này,
thì trên thế giới đã có
một vài nơi vận tải alumina bằng
đường ống (Úc, Brazil...)... Quan trọng
hơn thế nhiều là tại sao không
ngay từ bây giờ tính đến phương
án và trù bị mọi việc, để
vào một thời điểm nào đó,
Việt Nam sẽ có thể thay thế Nhật
Bản sản xuất những sản phẩm nhôm
cao cấp? Xin lưu ý, hiện nay Nhật đang
trù tính chuyển nhiều bộ phận
công nghiệp của nền kinh tế nước
mình ra bên ngoài để tăng cường
khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế
Nhật. Là nước đi sau, chúng ta có
quyền lựa chọn. Có nên tính đến
yếu tố này trong xây dựng chiến
lược phát triển kinh tế của nước
ta hay không? Lựa chọn con đường
này sẽ có khả năng tránh hay
giảm thiểu đáng kể việc phát
triển kinh tế của các sản phẩm
thượng nguồn và giúp ta khắc
phục tốt hơn tình trạng tụt hậu.
Như
vậy đối với nước ta hiện nay,
với một tầm nhìn chiến lược
mới và cách tiếp cận mới, càng
chậm đi vào khai thác bauxite ở Tây
Nguyên, càng có lợi. Lợi thế
nước đi sau là như vậy.
Ngay ở Trung
Quốc, việc phát triển công nghiệp
nhôm ngoài đòi hỏi tất yếu
là đáp ứng nhu cầu tiêu thụ
mỗi năm khoảng 15 triệu tấn không
có cách gì nhập đủ được,
Trung Quốc gắn nhiệm vụ này với
việc nhiệm vụ tranh thủ cơ hội trở
thành cường quốc xuất khẩu ô-tô
và máy bay. Rõ ràng thời buổi
ngày nay quốc gia nào có ý thức
về cạnh tranh đều phải “gắn”
như vậy, nếu không là tự đào
thải mình. Tìm cách gắn
với
cái hiện đại và sức cạnh
tranh cao, chứ không phải gắn
với
tài nguyên không tái tạo được
và lao động cơ bắp.
Quy trình
lộn ngược
Việc triển
khai các dự án khai thác bauxite ở
Tây Nguyên ngoài việc thiếu chiến
lược phát triển tổng thể của
vùng này làm nền tảng, có
nguy cơ đang diễn ra theo quy trình lộn
ngược:
Kết cấu hạ tầng phải có cho khai
thác và cho bảo vệ môi trường
không được xây dựng trước
khi tiến hành triển khai các công
trình khai thác và tuyển + sơ chế
quặng. Các kế hoạch giải quyết
các vấn đề an sinh xã hội có
liên quan đến toàn vùng Tây
Nguyên hoặc là mới có ở mức
độ ý tưởng, hoặc là chưa
nghĩ đến, hoặc chưa có!
Chưa thấy
các dự án khai thác alumina ở Tây
Nguyên có các nguồn điện và
nước của riêng mình, trước
mắt vẫn là tính chuyện sử dụng
các đầu vào này (input) cho sản
xuất trên cơ sở các nguồn hiện
có tại chỗ. Cách tiếp cận này
rất nguy hại cho Tây Nguyên, trong khi Tây
Nguyên đang thiếu trầm trọng điện
và nước cho con người, nông nghiệp
và cây công nghiệp.
Vấn đề
vận tải một khối lượng lớn
quặng sơ chế alumina (ước lượng
từ 0,6 đến 1 triệu tấn/năm) từ
Tây Nguyên xuống cảng biển trong nhiều
năm sau khi bắt đầu khai thác, trù
tính trong thời chưa có đường
sắt và cảng chuyên dụng, sẽ sử
dụng đường bộ và một hay
nhiều cảng hiện có. Điều này
có nghĩa sẽ hủy hoại đáng
kể những con đường và cảng
có liên quan, đồng thời làm ô
nhiễm không thể cứu vãn được
cả một vệt đỏ dài hủy diệt
xuất phát từ các mỏ bauxite ở
Tây Nguyên chạy xuống tận cảng
biển, một phần lớn vùng duyên
hải miền Trung. Thực tế này sẽ
cũng có nghĩa là làm hỏng luôn
kinh tế cả vùng duyên hải miền
Trung, nhất là ngành du lịch. Với
cung cách làm ăn đang có của ta,
chờ cho đến khi hoàn thành được
đường sắt và cảng chuyên
dụng cho xuất khẩu bauxite, tình hình
có thể sẽ quá muộn – chưa
nói đến chuyện những công trình
chuyên dụng này có khả thi về
mặt kinh tế hay không, có tiền để
làm không, và biết bao nhiêu điều
bất thường khác! V... v...
Việc xử
lý bùn đỏ và nước thải
nêu trong các đề án khai thác
bauxite đầy nghi ngờ, vì hai lý do:
(a) rất tốn kém, (b) khó có thể
làm được như có thể viết
ra trên giấy – hiện tượng này đã từng xảy ra tại nhiều nước
trên thế giới – kể cả ở Úc,
Canada.... Ngay ở nước ta, xin hãy nhìn
lại quá trình khai thác than hơn 100
năm nay ở Quảng Ninh, nhất là 30 năm
trở lại đây. Có thể nói,
cho đến ngày hôm nay, tất cả các
mỏ than đã khai thác xong và đã
đóng cửa ở Quảng Ninh hầu
như đều là các vùng “Quảng
Ninh đen”, chưa có một nơi nào môi trường
tự nhiên được hoàn lại như
trước khi khai thác. Một lần tôi
hỏi một đồng chí lão thành
cách mạng là nguyên bí thư tỉnh
ủy Quảng Ninh: “Tại sao không phục
hồi trả lại môi trường nơi
khai mỏ?”. Trả lời: “Một là
làm như thế sẽ lỗ; hai là ăn
hết mất rồi!” Với cách quản
lý mỗi năm hàng chục triệu tấn
than xuất khẩu lậu như đã từng
xảy ra vừa qua, thật
khó tin môi trường những nơi khai
thác bauxite ở Tây Nguyên sẽ được
hoàn trả một cách an toàn, nhất
là vùng này cao và có độ
dốc lớn.
Còn các vấn đề ô nhiễm
khác?
Hồ
chứa bùn đỏ sau khi lấy alumina từ bauxite tại Kashipur - Orissa, India
– không còn
sự sống nào trong môi trường này.
Nguồn:
http://www.miningwatch.ca/index.php?/Kashipur_Bauxite/ALCAN_Juggling_with_
Vấn đề
nguy hiểm nhất trong quy trình lộn ngược
này là chưa có một chương
trình khả thi và được phê
duyệt ở cấp quốc gia cho việc bảo
vệ, phục hồi môi trường nơi
khai thác và cho toàn vùng, thiếu
hẳn sự bàn bạc với các tỉnh,
các địa phương chung quanh và các
Bộ, ngành có liên quan về việc
phối hợp, hợp tác với nhau xử lý
các hệ quả của khai thác bauxite có
thể xảy ra. Lẽ ra vấn đề nguy hiểm
nhất này phải được xử lý
đầu tiên trước khi quyết định
sẽ làm hay không làm alumina ở Tây
Nguyên.
Việc làm
mới ?
Báo
chí nói dự án khai thác bauxite ở
Tây Nguyên đã động thổ (Đắc
Nông) sẽ đem lại 16 nghìn việc
làm mới. Nhìn theo cái giá Tây
Nguyên phải trả, con số này thật
quá bé nhỏ so với dân số Tây
Nguyên – năm 1975 lả 1,3 triệu người
và hiện nay là gần 4 triệu người.
Ngoài ra về bauxite ở Tây Nguyên, chí
ít phải đặt thêm các câu
hỏi: (1) 16 nghìn việc làm này là
cho ai – nghĩa là người dân tộc
nào? (2) Bao nhiêu người các dân
tộc Tây Nguyên sẽ bỏ đi và
sự xáo trộn dân cư “đến
và đi” sẽ xảy ra như thế
nào? hệ quả mọi mặt? (3) Phương
án Tây Nguyên xanh có tạo ra nhiều
việc làm hơn không? (4) Bao nhiêu việc
làm thuộc các ngành nghề khác
ở Tây Nguyên và các vùng, các
tỉnh chung quanh sẽ bị mất đi do việc
khai thác bauxite hủy hoại môi trường
toàn vùng? V... v...
Năm 1976 Tây
Nguyên có khoảng 1,2 triệu người
sinh sống, hiện nay là gần 4 triệu.
Trong một môi trường dân số tăng
nhanh như vậy– nhất là do tăng dân
số cơ học và còn đang tiếp
tục tăng, thêm một hai chục nghìn
việc làm mới cho Tây Nguyên nhờ
khai thác bauxite như vậy, có giải
quyết được vấn đề đời
sống của Tây Nguyên không? Trong khi đó
một không gian dân cư sinh sống đáng
kể sẽ bị việc khai thác khoáng
sản này cướp đi. Nên lựa
chọn cái gì?
Cần lưu
ý: Con số 16 nghìn việc làm có
thể tạo ra nhờ khai thác bauxite như
báo chí nêu lên, chủ yếu sẽ
là lao động thủ công. Thực
tế ở Việt Nam và trên thế giới
cho thấy khai thác mỏ càng sử dụng
nhiều lao động thủ công, hủy hoại
môi trường càng lớn.
Trên hết cả, xin hãy đi khảo sát
đời sống thợ tại các mỏ
than, mỏ đá, các mỏ khoáng sản
khác ở khắp nước ta để suy
nghĩ xem: Họ đang sống như thế nào?
Đây
có phải là loại việc làm đáng
tạo ra của thời kỳ đất nước
đẩy mạnh công nghiệp hóa theo
hướng hiện đại thời hội nhập
ngày nay hay không? Vân... vân...
Muốn phát
triển Tây Nguyên bền vững, cần
trả lời thỏa đáng nhiều câu
hỏi khác tương tự như thế, kể
cả về an ninh quốc phòng và đối
ngoại.
Kết
luận
Khai thác
khoáng sản đem bán – dù là
than, dầu hay là gì nữa – lúc
này đối với nước ta là cực
chẳng đã, là hạ sách, trong
nhiều trường hợp là thất sách,
không nên mở rộng thêm, mà cần
thay đổi tình hình này càng
sớm càng tốt, kéo dài là
chuốc thêm nghèo khó và tụt
hậu. Ngoài ra nước ta hàng năm
thiên tai gây ra biết bao nhiêu khốn
khó, năm sau có thiên hướng khắc
nghiệt hơn năm trước, tình trạng
lụt lội các nơi ngày càng
nhiều. Không có lý do gì mỗi
năm lại cứ cho đẻ thêm các
công trình kinh tế góp phần làm
trầm trọng thêm thiên tai, để rồi
lại kêu gọi cả nước ra sức
chống, ra sức cứu, với bao nhiêu đau
thương và tổn thất.
Khai thác
bauxite ở Tây Nguyên như
đang triển khai,
sẽ (1) hủy hoại môi trường đồng
thời làm biến đổi khí hậu
toàn bộ vùng này và chung quanh,
(2) thu hẹp vùng dân cư sinh sống, (3)
gây phương hại cho an ninh của đất
nước.
Khai thác
bauxite như đang triển khai, về lâu dài
là đang lấp ló một “Vedan”
khổng lồ, toàn diện, vô phương
cứu chữa, là sự phụ họa tiếp
theo với thiên tai, để làm hỏng
đất nước, kéo dài nữa sự
tụt hậu của cả nước.
Liên quan đến
Vedan, ngày 13-11-2008 Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng nói trước Quốc hội:
“Chính
phủ cũng chủ trương ngăn chặn
những vi phạm mới, không vì lợi
ích trước mắt mà hy sinh môi
trường. Vừa rồi Chính phủ đã
từ chối dự án thép trị giá
4 - 5 tỷ USD vì vấn đề môi
trường”.
Mong rằng tinh thần này được vận
dụng cho bauxite Tây Nguyên.
Với nguy cơ
triển khai theo quy
trình lộn ngược như
đang thực hiện,
chương trình khai thác bauxite Tây
Nguyên có thể vừa để lại
nhiều hệ quả lớn về kinh tế,
chính trị, xã hội, vừa tạo ra
cho nước ta sự lệ thuộc mới không
thể chấp nhận.
Khai thác
bauxite như đang triển khai nguy hiểm tới
mức những sai lầm có nguy cơ gây
ra những tổn thất lớn lao mang trọng
tội đối với quốc gia, thiết nghĩ
nên cân nhắc rất cẩn trọng với
tầm nhìn dài hạn.
Vì vậy
xin đề nghị lãnh đạo Đảng
và Nhà nước chỉ thị cho tạm
dừng việc triển khai chương trình
này, thực hiện các nghiên cứu
cho phép đi tới những quyết định
thỏa đáng cho tương lai phát triển
của Tây Nguyên,
trước khi đi tới quyết định
nên dừng hẳn trong một thời gian nhất
định việc khai thác bauxite ở Tây
Nguyên, hay nên đi tiếp và đi tiếp
như thế nào. Mong trí tuệ của cả
nước được huy động, và
mong khai thác kinh nghiệm của cả thế
giới cho việc này.
Xin trân trọng
đề nghị Bộ Chính trị và
Chính phủ cử một đoàn có
thẩm quyền về kiến thức khoa học
và kinh tế, độc lập với các
Bộ, ngành và tập đoàn,
-
a/ đi khảo sát một số nơi chứa bùn
đỏ ở Ấn Độ, châu Phi, hay một vài nơi nào khác để nghiên cứu những hệ
lụy trong việc khai thác bauxite, về báo cáo công khai trong nước để
tham khảo ý kiến nhân dân trước khi đi tới quyết định cuối cùng.
-
b/ đi khảo sát dự án đầu tư của
Trung Quốc ký với Úc khai thác bauxite ở mỏ Aurukun, Queensland rồi so
sánh với những dự án ta đã ký kết và rút ra những kết luận cần thiết
cho Tây Nguyên.
Con đường
đi lên của nước ta là tìm
cách phát huy con người Việt Nam tự
chủ, có ý chí nhẫn nại làm
giầu bền vững, lâu dài trên từng
thước vuông đất của Tổ quốc
chúng ta - bằng trí tuệ và lao động
cần cù sáng tạo, chứ không phải bằng cách đào bới khoáng sản
đem đi bán.
Xin đừng
giây phút nào quên nước ta đất
chật người đông, ở vào vị
trí địa lý và vị thế đầy
thách thức ác nghiệt. Riêng trong nửa
sau của thế kỷ 20 nước ta phải
gánh chịu 5 cuộc chiến tranh khốc
liệt, và hôm nay bước vào thế
kỷ 21 với sự lạc hậu và tụt
hậu kinh hoàng so với thế giới. Cần
nhìn vào con đường đất nước
phải đi để thấy hết sự thật
này! Phải biến thách thức thành
cơ hội. Đó là con đường
duy nhất để tồn tại và phát
triển. Vị trí địa lý và
vị thế nước ta tiềm tàng một
cơ hội như thế! Tất cả trước
hết phụ thuộc vào cái đầu
và ý chí, chứ không phải cơ
bắp.
Thừa hưởng
những kinh nghiệm của các nước
đi trước
trong hai thế kỷ trước, một số
nước NICs đã tận dụng được
lợi thế nước
đi sau
và đã thành công – con đường
họ đi bắt đầu từ giáo dục...
Tại sao nó không thể là con đường
của chúng ta? (tham khảo thêm: [14]).
Thế hệ
chúng ta hôm nay cần làm mọi việc
để tránh phải đi vào lịch
sử với “tội danh” là thế
hệ hủy hoại Tây Nguyên. Trách
nhiệm của mỗi người Việt Nam thế
hệ hôm nay đối với phát triển
và tương lai của Tây Nguyên là
không thể thoái thác.
Nguyễn
Trung
Hà Nội,
ngày 11-11-2008
Nguồn: Bài đã đăng trên Tuần Vietnam ngày 2.12.2008. Đây là bản tác giả gửi Diễn Đàn, với một vài chỉnh sửa nhỏ.
|