Lê Duẩn
không lén ở lại miền Nam vì mê gái, hay để rong chơi ngày tháng, mà ở
lại với một sứ mạng. Không cần gán ghép hay suy đoán, vì ông Võ Văn
Kiệt đã nói rõ trong bài báo thượng dẫn:
Và như để người đọc khỏi thắc mắc tại sao Anh Ba lén xuống tầu từ 1955
mà mãi hơn một năm sau mới hoàn thành kế hoạch chiếm miền Nam, ông Kiệt
đã nói rõ hơn:
Như vậy, không phải đợi đến 1956, vì không có bầu cử nên Bắc Việt mới
quyết định chiếm miền Nam bằng võ lực, mà kế hoạch đã định ngay khi
Hiệp định Genève chưa ráo mực, lúc đang chuyển quân tập kết. Vẫn theo
ông Võ Văn Kiệt, chính "Đề cương" của Lê Duẩn đã là cái sườn cho quyết
định của Đảng Cộng sản tiến chiếm miền Nam. Ngoài ra, ông Kiệt cũng
chẳng cần che đậy sự thật là cộng sản Việt Nam đã sử dụng đất Căm Bốt
để xâm chiếm Nam Việt Nam.
Đề
cương được thảo luận kỹ trong Hội nghị Xứ ủy mở rộng tháng 12 năm 1956
và mấy tháng đầu năm 1957 ở Phnôm Pênh, là một điểm tựa cơ bản, trở
thành cái khung để hình thành Nghị quyết T.Ư lần thứ 15.
Không
có chính nghĩa dân tộc, các chính quyền ấy cũng chẳng có gì gọi được là
hoà bình, dân chủ, tự do cả. Nói đó chỉ là do tuyên truyền "chiến tranh
tâm lý" dựng nên tôi thấy chẳng có gì là sai. Hồi nhỏ học ở Sài Gòn,
tôi hay ê a mấy câu "kìa thôn quê dưới trăng vàng bát ngát, ánh trăng
thanh chiếu qua làng xơ xác, chiếu đồng quê bao khúc ca tuyệt vời!"
nhưng khi về quê thăm nhà mới thấy ở đây không lúc nào ngớt diễn ra
những cuộc hành quân, hết chống phe này đến phái nọ ("bài phong, đả
thực"), ồn ào khốc liệt nhất là những chiến dịch trả thù cộng sản rất
dữ dội ("chống cộng")…
Cuộc sống thanh bình từ thành thị tới nông thôn tại Nam Việt Nam đã là
điều có thật, nhưng chỉ được vài năm. Điều này dễ hiểu, vì hình ảnh êm
đềm như trong tiếng hát ông vẫn ê a không phù hợp với "Đề cương" của
Anh Ba. Lê Duẩn và các đồng chí của ông, những người trốn ở lại và
những người lén trở về, bắt đầu quấy phá tại nông thôn để gây tiếng
vang, tạo tình trạng bất ổn. Kích đồn, ngăn chợ, phá trường, khủng bố
hương chức hương sư..., là bước đầu của "cách mạng giải phóng".
Vào đầu thập niên 60, người viết đã từng đi theo phái đoàn của Tổng
Liên đoàn Giáo giới Quốc tế, do giáo sư Shri Natarajan người Ấn Độ cầm
đầu, với sự phụ tá của giáo sư người Đại Hàn Tai Si Chung, tới các quận
Thới Bình (Cà Mâu), và Giồng Riềng (Kiên Giang) – hình như Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng bây giờ, hồi ấy đang làm giao liên tại vùng này – để
tìm hiểu về các trường hợp giáo chức bị du kích sát hại. Thân nhân các
giáo viên xấu số này cho biết: Khởi đầu, du kích ra lệnh đóng cửa
trường, không được dạy. Nhưng là thành phần ăn lương nhà nước, giáo
chức không thể nghe lời du kích, thế là bị giết. Có đánh phá, giết
người, tất nhiên phải có hành quân bình định. Nếu cho đó là "những
chiến dịch trả thù cộng sản", thì cũng là một cách nói không xa sự thực.
Không hiểu ông Trần Văn Trạng đang sống ở đâu, và cái chính quyền đang
chi phối cuộc đời ông có ra hồn không. Dầu sao, tôi cũng có thể đồng ý
với ông là mấy cái chính quyền VNCH, "chẳng có cái nào ra hồn cả". Bằng
chứng hiển nhiên là chính quyền ông Diệm, thay vì bắt Lê Duẩn và các
đồng chí của ông ấy hội họp tại đường Huỳnh Khương Ninh, ngay giữa Sài
Gòn để thảo "Đề cương", thì đi bắt các ông Phan Khắc Sửu, Trần Văn
Hương, Trần Văn Văn..., và tệ hơn nữa, thủ tiêu các ông Nguyễn Bảo
Toàn, Nguyễn Tam Anh, Tạ Chí Diệp... Còn chính quyền ông Thiệu thì ra
luật bóp nghẹt báo chí để đề phòng cộng sản trà trộn, trong khi nhà báo
cộng sản nằm vùng Huỳnh Bá Thành vẫn làm báo khơi khơi, và mấy tay tình
báo Huỳnh Văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ được mời vào Dinh Độc Lập làm cố vấn.
Ngay
cả chính quyền Mỹ, một nước đang đóng vai vô địch thế giới về nhiều
mặt, cũng đâu có ra hồn. Những quyết định liên can tới vụ đảo chánh ông
Diệm, chuyện mang quân vào Việt Nam, rồi "bỏ danh dự chạy lấy người",
là bằng chứng cụ thể. Cả những kẻ kiêu ngạo như giới truyền thông Mỹ
cũng đâu có ra hồn. Họ lớn tiếng chỉ trích VNCH lấy tiền viện trợ do
dân Mỹ đóng góp mà không chống cộng hữu hiệu, trong khi họ mướn và tin
cẩn điệp viên cộng sản tay tổ Phạm Xuân Ẩn hàng chục năm mà không hề
nghi ngờ. Hầu như chẳng có chính quyền nào hoàn toàn ra hồn. Những
người sống tại miền Nam trước 1975 đã phải chọn cái không ra hồn tương
đối dễ thở hơn, thế thôi.
Có lẽ ông Trần Văn Trạng
cho rằng, vì ông Diệm không chịu tổ chức bầu cử năm 1956, và vì Mỹ ủng
hộ quyết định này, nên đó là bằng chứng đàng hoàng Mỹ đã phá Hiệp định
Genève. Năm nay là kỷ niệm 50 năm cuộc bầu cử không thành, nên cũng cần
tìm hiểu thêm. Từ trước tới nay, nhiều người thường nói tới "Hiệp định
Genève" như là một thoả ước, trong đó quy định mọi vấn đề, từ ngừng
bắn, chuyển quân, di dân, cho tới tái thống nhất bằng bầu cử. Thật ra,
"Hiệp định Genève" gồm tới 10 văn kiện:
- Sáu tuyên bố đơn phương;
- Ba thoả hiệp ngừng bắn song phương, có hiệu lực thi hành đối với các bên ký kết;
-
Một tuyên bố không có chữ ký, dự trù thống nhất bằng bầu cử. Chỉ có bốn
trong chín nước tham dự Hội nghị can dự vào bản tuyên bố này. Cả Hoa
Kỳ, Bắc và Nam Việt đều không can dự. Văn kiện này không có giá trị
pháp lý buộc phải thi hành. [3]
Như vậy, việc thống nhất bằng bầu cử dự trù vào tháng Bảy năm 1956
không phải là một thoả hiệp đã đạt được tại Hội nghị Genève, mà mới chỉ
là ước vọng của bốn trong chín nước tham dự. Một ước vọng không bó buộc
ai phải thi hành. Giống như trường hợp có mấy người họ hàng tự ý bầy tỏ
nguyện vọng đôi trẻ sẽ thành hôn trong hai năm. Đến ngày đến tháng, một
hay cả hai đương sự không muốn tiến tới hôn nhân, vì nghi ngờ lẫn nhau.
Không thể kết tội ai đã bội ước, vì chưa hề có giao ước.
Ngoài ra, vào tháng 4 năm 1956, dịp phái đoàn Khrushchev và Bulganin
viếng Luân Đôn, Lord Reading đại diện Anh và Gromyko đại diện Liên Xô,
hai nước bảo trợ Hội nghị Genève 1954 đã ra tuyên bố đồng ý rằng cuộc
tổng tuyển cử dự liệu không thể thực hiện được trong những điều kiện
hiện tại, nên sẽ không được tổ chức. Tin tức về vụ này bị chìm vì những
"xì căng đan" lớn quanh chuyến đi của Khrushchev. Chuyện nổ lớn hơn cả
là một sĩ quan người nhái thuộc tổ chức tình báo quân sự Anh (M16) tên
là Lionel Crabb bị mất tích gần chiến hạm Ordzhonikidze, chiếc tầu chở
Khrushchev và Bulganin đậu tại Cảng Portsmouth. Vụ này vô cùng sôi nổi,
và bí mật còn bao trùm tới ngày nay. Phải đợi tới năm 2057 hồ sơ nội vụ
mới được giải mật.
Qua hồi ký In The Midst Of Wars
(Harper & Row, 1972), tướng Edward Lansdale, người đã giúp ông Diệm
ổn định chế độ lúc đầu, kể rằng: Vào đầu năm 1956, ông về Washington
gặp anh em ông Dulles, một người là Ngoại trưởng, một người là Giám đốc
CIA, yêu cầu cho ông được về Mỹ, coi như đã hoàn tất nhiệm vụ tại Việt
Nam. Anh em ông Dulles đã yêu cầu ông Lansdale lưu lại Việt Nam cho đến
hết năm 1956, để giúp về tổng tuyển cử.
Tướng
Lansdale đã trả lời anh em ông Dulles là theo ông, sẽ không có tổng
tuyển cử, vì trong khi uy tín ông Diệm lên cao nhất vào lúc đó ở miền
Nam (nền Cộng hoà mới ra đời, dẹp xong các phe phái chống đối, ổn định
xong gần một triệu dân di cư...), theo tin tức từ những người mới vượt
tuyến, miền Bắc đang gặp nhiều khó khăn, vì Việt Minh thạo đánh nhau
hơn là cai trị (dân thiếu thực phẩm, phẫn uất về chiến dịch đấu tố Cải
cách Ruộng đất, vụ nổi dậy ở Quỳnh Lưu, nghệ sĩ bất mãn vụ Nhân
văn-Giai phẩm, sinh viên đại học Hà Nội đòi rút bớt mức độ huấn luyện
chính trị, đảng viên giao động sau Đại hội 20 tại Liên Xô...) Nếu có
bầu cử thực sự tự do, miền Bắc sẽ thua. Ông Lansdale viết: "Vì những lý
do ấy, tôi cảm thấy rằng các lãnh tụ cộng sản ở Hà Nội có thể đã kín
đáo thông báo cho Liên Xô bớt hối thúc việc tổ chức tổng tuyển cử trong
các cuộc gặp gỡ với Anh quốc".
Ông Lansdale đã tiên
đoán như trên bốn tháng trước khi Anh và Liên Xô đồng ý không có bầu
cử. Tin tức về thoả thuận này bị chìm, nhưng dư luận vẫn nhớ những gì
được loan báo về tổng tuyển cử vào năm trước: Nhân tuần lễ kỷ niệm một
năm Hiệp định Genève, Thủ tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố vào ngày
16-7-1955, "Việt Nam không ký Hiệp định Genève, nên không bị ràng buộc,
song vẫn trung thành với chính sách hoà bình, và sẵn sàng tổ chức tổng
tuyển cử, nếu có thể bầu được tự do". Từ miền Bắc, ngày 10-8-1955, Chủ
tịch Hồ Chí Minh kêu gọi hiệp thương và hứa tự do tổng tuyển cử. Nhưng
ngày 12-12-1955 tại Hoa Kỳ, Đại sứ VNCH Trần Văn Chương tuyên bố: "Sẽ
không có tổng tuyển cử năm 1956 ở Việt Nam. Hiệp định Genève không bắt
buộc".
Ông Diệm hứa sẽ tổ chức tổng tuyển cử, nếu có
điều kiện bầu cử tự do, khi ông còn đang làm Thủ tướng. Sau khi truất
phế Bảo Đại và làm Tổng thống, Đại sứ của ông tuyên bố sẽ không có bầu
cử vì không bắt buộc. Quả thật địa vị có làm thay đổi con người. Ông Hồ
hứa tự do tổng tuyển cử. Lịch sử còn ghi nhiều lời hứa của ông, nhưng
có mấy điều đã thành sự thật? Ngày nay, nửa thế kỷ sau, Đảng Cộng sản
Việt Nam vẫn còn bỏ tù những ai đòi bầu cử tự do, làm sao có tổng tuyển
cử tự do vào năm 1956?
Ông Diệm đã chứng tỏ kém ông
Hồ về phương diện vận động dư luận. Nếu ông cứ gặp ông Hồ, thảo luận
tích cực về việc tổ chức tổng tuyển cử, đòi hỏi bằng được những điều
kiện bảo đảm một cuộc bầu cử thực sự tự do và công bằng, rồi cuộc thảo
luận có tan vỡ, không đưa đến bầu cử, dư luận cũng không thể kết tội
riêng bên nào. Vì không làm như thế, ông Diệm đã bị mang tiếng sợ thua,
vi phạm Hiệp định Genève vì đã từ chối tổng tuyển cử. Hà Nội còn có cớ
nói rằng: Vì miền Nam không chịu thống nhất đất nước bằng bầu cử, miền
Bắc mới phải làm việc này bằng chiến tranh.
Sự vụng
về của ông Diệm, được Mỹ ủng hộ, đã trở thành "chứng cớ đàng hoàng" của
"các học giả khắp nơi", biến kẻ cố tình vi phạm Hiệp định Genève từ lúc
đầu, thành kẻ có chính nghĩa.
© 2006 talawas
Tóm
tắt: Chính trị là âm mưu và thủ đoạn. Chiến tranh Việt Nam có thể nói
là một trò chơi chính trị, mà cả CSVN và VNCH đều mắc sai lầm trầm
trọng. Vì bị "xui khiến", bên theo Mỹ và bên theo Cộng Sản Quốc Tế.
Ban
đầu bên CS miền bắc VN không muốn có Hiệp Định Geneve, nhưng chính sự
vụng về của ông Diệm (từ chối tổng tuyển cử vì sợ phía cộng sản miền
bắc sẽ thắng và quyết định này được Mỹ ủng hộ, đã trở thành "chứng cớ
đàng hoàng" của "các học giả khắp nơi", biến Miền Bắc cố tình vi phạm
Hiệp định Genève từ lúc đầu, thành bên có chính nghĩa.