Quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng đang được ví von với hình ảnh
một người ốm đói và kẻ bội thực mà không thể đến được với nhau. Lòng
tin phai nhạt khiến "mối tình" bấy lâu giữa hai bên đang rạn nứt.
Thị trường ngân hàng những ngày này đang chứng kiến một cuộc đua ngược
về lãi suất. Ba bốn tháng trước, nhà nhà thi nhau đẩy lãi suất huy động
lên cao và thiết tha nhờ báo chí công bố thông tin để thu hút khách
hàng. Riêng biểu lãi suất cho vay được giữ kín. Hai tháng trở lại đây,
khi lãi suất cơ bản bắt đầu đi xuống, ngân hàng lại ráo riết hạ lãi
suất cho vay và sốt sắng công bố thông tin, thậm chí muốn mình là người
đầu tiên chạm đáy. Biểu lãi suất huy động cũng giảm, nhưng không nhanh
bằng lãi suất cho vay mà ngân hàng cũng không tiết lộ.
Trong cuộc đua ngược này, các anh cả quốc doanh tỏ ra nhanh nhẹn nhất,
khác hẳn những lần đua tăng lãi suất huy động trước đây. Nếu tính cả
quyết định mới công bố chiều nay, 4/12, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam (BIDV) đã 10 lần hạ lãi suất trong vòng 5 tháng, dù tính toán
sẽ giảm doanh thu hàng nghìn tỷ đồng. Nhà băng này thường xuyên cố bố
giảm lãi suất sớm nhất, là nơi có lãi suất cho vay thấp nhất thị
trường. Kể từ 8/12, lãi suất cho vay ngắn hạn ở nhà băng này thấp nhất
là 10%, đúng bằng lãi suất cơ bản vừa được Ngân hàng Nhà nước điều
chỉnh. Lãi trung dài hạn được neo theo lãi suất tiết kiệm, nhưng không
quá 150% lãi suất cơ bản.
Hai ngân hàng quốc doanh khác là Vietcombank và VietinBank cũng liên
tục bám sát BIDV trên đường đua xuống đáy. Lãi suất thấp nhất ở
Vietcombank là 10,5% còn VietinBank là 11%. Trong nhóm cổ phần, Liên
Việt Bank có lãi suất cho vay ưu đãi 13% một năm.
Ngân hàng than phiền các doanh nghiệp
đang hờ hững với vốn vay. Ảnh: T.A
Bất chấp việc "giảm giá" của ngân hàng, lượng doanh nghiệp đến vay vốn
vẫn vắng hoe. Vấn đề chính không nằm ở biểu lãi suất, mà tình hình thị
trường, đầu ra cho sản phẩm khiến cả doanh nghiệp xuất khẩu cũng như
sản xuất phục vụ nhu cầu trong nước e ngại.
Ông Phạm Gia Hưng (Hiệp hội dệt may Việt Nam) cho biết nhu cầu vay vốn
của các doanh nghiệp trong ngành này rất thấp vì nguồn hàng không ổn
định, đơn hàng chập chờn. Nhiều trường hợp không ký được đơn hàng mới,
doanh nghiệp dệt may khó khăn và lúng túng với kế hoạch kinh doanh
không chỉ hiện nay mà cả năm sau.
"Lãi suất cho vay đang trên đà giảm giúp làm giảm áp lực cho doanh
nghiệp, nhưng sẽ ít người nào có ý định tiếp cận vốn vay ngân hàng
trong thời điểm này", ông Hưng khẳng định.
Lúc cao điểm tháng 6, tháng 7, lãi suất cho vay của các ngân hàng lên
đến 20-21% một năm, song vẫn có một số doanh nghiệp có nhu cầu vay.
Thời điểm này đơn hàng vẫn khá dồi dào, mặc dù bị sức ép chi phí đầu
vào nặng nề nhưng doanh nghiệp có thể xoay sở được.
"Còn thời điểm này, doanh nghiệp phần lớn chọn cách co cụm, năng lực
tới đâu đầu tư đến đó, không dám đẩy mạnh hoạt động, càng không dám mạo
hiểm đặt quá nhiều kỳ vọng ở năm tới để mở rộng quy mô công ty, nhà
xưởng", Giám đốc một xí nghiệp may xuất khẩu nhìn nhận.
Sự thờ ơ của doanh nghiệp đang đặt ngân hàng vào cảnh khó khăn không
kém, thậm chí còn hơn lúc khủng hoảng thanh khoản hồi giữa năm. Từ chỗ
thiếu vốn để cho vay, ngân hàng đang chuyển sang giai đoạn dồi dào vốn
mà không thể cho vay, thậm chí phải cho vay khoán. Tổng giám đốc Ngân
hàng cổ phần Liên Việt (Liên Việt Bank) Nguyễn Đức Hưởng ví ngân hàng
với hình ảnh một ông bội thực, còn doanh nghiệp như một ông đói meo.
Ngân hàng bội thực vì không thể đẩy vốn đi, gồng mình gánh chịu chi phí
lớn cho số vốn đã huy động. Doanh nghiệp thì mong chờ sự cứu giúp,
nhưng người đã lỡ dở kế hoạch kinh doanh, kẻ có kế hoạch lại mong chờ
lãi suất giảm thấp hơn nữa.
"Cả ông bội thực và ông ốm đói đều có nguy cơ giống nhau là có thể đi
đến chỗ chết. Nhưng họ không thể đến với nhau. Rào cản từ khủng hoảng
thế giới khiến ngân hàng và doanh nghiệp không tin tưởng nhau", ông
Hưởng phân tích.
Theo ông, trong giai đoạn đóng băng tín dụng, tâm lý sợ hãi khiến ngân
hàng, tiếng là rất muốn cho vay nhưng cũng không dám làm liều. Niềm tin
trong kinh doanh có vấn đề, từ đó ảnh hưởng tới nghiệp vụ của các ngân
hàng. Họ thiếu tự tin khi quyết định hợp tác với doanh nghiệp. Nay,
ngân hàng dồi dào vốn nhưng không thể cho vay bởi các kế hoạch kinh
doanh của doanh nghiệp đã "an bài".
Khối các ngân hàng cổ phần càng khó khăn nhiều hơn trong bối cảnh có sự
chênh lệch lớn về lãi suất cho vay với ngân hàng quốc doanh. "Khách
hàng đến đều nói rằng ngân hàng quốc doanh cho vay 11-12%, sao các anh
cao thế. Đòn gió lãi suất này khiến chúng tôi đã khó khăn càng khó khăn
hơn khi tiếp cận doanh nghiệp", giám đốc một ngân hàng cổ phần có vốn
điều lệ dưới 1.000 tỷ đồng than thở.
Điều mà Tổng giám đốc Liên Việt Bank Nguyễn Đức Hưởng lo ngại nhất là
hướng đi sau khủng hoảng. Trong lịch sử ngành ngân hàng thế giới, hậu
khủng hoảng sẽ là cuộc "binh biến phát triển". Nếu chỉ mải lo thoát
khỏi khó khăn hiện nay, không chuẩn bị sẵn kế hoạch cho giai đoạn phục
hồi, các ngân hàng sẽ chới với khi kinh tế vào guồng tăng tốc.
Là tổng giám đốc ngân hàng duy nhất trực tiếp đi tiếp thị khách hàng,
đóng vai trò của cán bộ nguồn vốn, ông Hưởng ngộ ra rằng các ngân hàng
Việt Nam đang mất dần khách hàng tốt cho ngân hàng nước ngoài. Với lợi
thế hoạt động khép kín, dịch vụ chất lượng cao, ngân hàng nước ngoài
đang chiếm cảm tình của những doanh nghiệp làm ăn uy tín.
Theo dự báo của ông Hưởng, kịch bản tồi tệ nhất sẽ lộ diện vào tháng 9
năm sau. Vòng xoáy khó khăn sẽ đẩy các ngân hàng từ chỗ thừa vốn không
thể cho vay hiện nay sang giai đoạn nợ xấu bùng phát, thiếu thanh
khoản. Sang năm, ngân hàng sẽ phải dành hàng trăm nghìn tỷ để trích lập
dự phòng rủi ro cho những khoản nợ xấu, đặc biệt trong lĩnh vực bất
động sản. Khi đó, tình trạng thiếu vốn lại xảy ra, đúng vào lúc hoạt
động sản xuất kinh doanh bắt đầu hồi phục.
"Chúng tôi không có thói quen sống ở trên mây với những điều viển vông,
xa thực tế, mà luôn nghĩ tới kịch bản xấu nhất để dự phòng các biện
pháp ứng phó thích hợp", ông Hưởng nói thêm.
Tần Vy - Song Linh