Căm
thù xã hội vì cha là Nguyễn Sinh Sắc uống rượu đánh chết ngươi, nên bị
bãi quan tại Binh Ðịnh. Nguyễn tất Thành vào Phan Thiết sống nhờ qua sự
đùm bọc của Hồ Tá Bang, Trương Gia Mô và mấy người con của Nguyễn Thông
một thời gian ngắn. Năm 1911, Thành sang Pháp nhờ làm bồi trên tàu
Latouche Tréville.
Sau
khi gia nhập đảng cọng sản Pháp, tháng 5-1923 Hồ Chí Minh (tên mới của
Nguyễn tất Thanh) sang Nga và bắt đầu một cuộc đổi đời về vật chất,
cũng
như được quan thầy Nga, huấn luyện dạy dỗ, trở thành một điệp viên cọng
sản quốc tế. Rồi Hồ được lưu lại công tác tại Bộ Phương Ðông, phụ trách
vấn đề các nước thuộc địa. Theo Hồng Hà, lúc đó Hồ được ở trong khách
sạn Luych, lương tháng bảy Tchervonetz, tương đương với bảy chục đồng
Rúp vàng hoặc 50 gam vàng.
Trong
lúc đó tại Nga nạn đói đang diễn ra thê thảm, khắp cả nước giặc giã
loạn lạc triền miên. Thế nhưng đảng cọng sản Nga lại cưng chiều Hồ, với
thực phẩm ê hề, tiền nong đầy đủ, và chỗ ở thì đông vui nhất. Hèn chi
Hồ đã sớm trở thành tên phản quốc số một của thời đại, suốt đời chỉ
biết trung kiên và phục vụ cho chủ mà thôi. Chính nơi thiên đàng này,
Hồ cho biết là mình đã được giác ngộ, hạnh phúc nên đã coi đây mới
chính là quê hương và tổ quốc đích thực của mình. Cũng tại đây trong
ngày quốc tế Lao Ðộng 1-5-1924,
Hồ theo lệnh thượng cấp, đến nói chuyện trước đám đông trong cuộc biểu
tình, dưới một biểu ngữ màu đỏ, để tang cho LêNin. Cũng theo Hồng Hà,
Hồ đã hứa là sẽ đem Lá Cờ Búa Liềm của Liên Xô, cũng như chủ nghĩa xã
hội của Ðệ Tam Cọng Sản Quốc Tế, về cấm tại tổ quốc VN và Y đã thực
hiện đúng lời cam kết trước vong linh của LêNin.
Từ
bản chất mặc cảm đói nghèo, Hồ xuất đương qua động cơ thúc đẩy là kiếm
sống và vươn lên trong xã hội, nên chúng ta sẽ không lấy làm lạ về
chuyện Hồ nộp đơn xin vào học miễn thi tại trường thuộc địa Pháp hay
xin Khâm Sứ Trung Kỳ cho cha là Nguyễn Sinh Sắc một chức quan nhỏ, để
kiếm cơm nuôi miệng. Sống ở Nga trong suốt thời kỳ biến động, trời long
đất lở, có lúc tưởng chừng chế độ Bonsovich sẽ bị tan tành. Nhưng chính
hoàn cảnh đó, lại trở thành thân quen , đáp ứng đầy đủ ý thức nô lệ của
một con người ôm đấy khát vọng, đã dạy cho Hồ những mô thức xã hội
tương lai, rập khuôn theo Liên Xô qua 2 vấn đề : ‘ thiếu nhi và nghệ
thuật khủng bố của KGB’ .
Thật
vậy ở Liên Xô thiếu nhi ngay từ thuở nhỏ, đã được đảng giáo dục và huấn
luyên biết căm thù, yêu ghét theo mệnh lệnh. Ðây là chuyện mà Hồ thích
nhất và đả đem nó về trồng người tại VN, về sau cũng chính những gieo
trồng đó đã trở thành ‘ thủ phạm trong mọi tội ác’ mà đầu tiên là vụ án
‘ cải cách ruộng đất’ long trời lở đất tại đất Bắc, khi Hồ làm chúa nơi
này. Kế tiếp là việc đem cấy ý niêm hận thù và đấu tranh giai cấp, được
coi như kim chỉ nam trong đạo lý cách mạng. Chính hai chủ trương độc
hại này được đảng VC gọi là ‘ tư tưởng Hồ Chí Minh ‘ suốt bảy mươi lăm
năm qua , đã phá vỡ truyền thống tu thân, trị quốc và đạo đức ngàn đời
của quốc dân Hồng Lạc, làm băng hoại xã hội, gia đình và nhân cách của
con người VN.
Cũng
kể từ đó, người Việt sống dưới chế độ cọng sản miền Bắc và cả nước từ
sau tháng 4-1975, theo đề cương văn hóa được đảng giáo dục, cách yêu,
cách ghét, cách sống và làm việc đã không còn là một con người, mà là
những công cụ phản ảnh chính sách của đảng. Tóm lại, chính Hồ đã làm
cho văn hoá và lịch sử VN vong thân, từ khi Y chính thức trở thành một
tên nô lệ chủ nghĩa ngoại bang. Cũng vì vậy mà nay dù to mồm lắm miệng
nói đổi mới, với cảnh phồn hoa giả tạo khắp phố phường, nhưng trong tận
cùng, người dân nhất là ngư, nông, tầng lớp lao động ở mọi miền đất
nước, đời sống tinh thần và vật chất, có hơn gì thời Pháp thuộc ? người
vẩn nguyên là thân phận của trâu, ngựa, có khác chăng khi trước kẻ
cưỡi, người chăn là thực dân da trắng, ngày nay chủ được thay thế là
những tên tư bản đỏ mà sự bốc lột bạo tàn còn gấp trăm nghìn lần kẻ thù
xưa củ. Ðó cũng là nhờ tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đạo.
Năm
1931 Trần Phú từ Liên Xô về, theo lệnh chủ dẹp bỏ tất cả những văn kiện
được Hồ nhân danh quốc tế cọng sản, thông qua trong hội nghị thống
nhất. Ðồng thời Phú thay LX, viết lại ‘ Luận Cương Chính trị’ khai lối
vẽ đường cho VC theo đó mà thi hành. Cũng từ đó Hồ bị quan thầy LX cho
ra rìa, chỉ hoạt động quanh quẩn tại các nước Ðông Nam Á. Rồi phong
trào Xô Viết Nghệ Tỉnh bùng nổ và đẫm máu trong sự thất bại ề chề, cũng
là thời gian Hồ bị gọi về giam lỏng tại LX, cho tới cuối thấp niên 30
mới thấy lộ diện và chính thức trở về VN vào mùa thu 1945 khi VC cướp
được chính quyền đang bị bỏ trống hay rơi rớt bên vệ đường, vì quân
phiệt Nhật đã đầu hàng Mỹ cùng Ðồng Minh, nên không thèm can thiệp.
Những
nét khái quát kể trên, về một phần đời hoạt động của Hồ trong quốc tế
cọng sản, qua những thay đổi theo thời gian của VC, nhưng cũng đủ cho
ta thấy được rất rõ ràng, cái gọi là khuynh hướng dân tộc trong lòng
đảng cọng sản VN thật sự chỉ là một ảo vọng, vì dưới lăng kính lịch sử
không hề có thể xảy ra. Tất cả giờ đây đã gần như hiện nguyên hình, xác
nhận Hồ cùng đảng cọng sản VN chỉ là quan hệ chủ tớ, trong một giai
đoạn mà Nga-Tàu bành trướng chủ nghĩa khắp Ðông Nam Á và cũng từ đó,
qua cái gọi là tư tưởng HCM
đã nói lên sự nghiệp vĩ đại làm tay sai cho ngoại bang của Hồ và đảng
VC trong suốt 75 năm qua tới giờ vẫn không thay đổi mà ai cũng biết.
Ngày
nay, qua cuộc phong trần, trước đống núi tài liệu và bằng cớ xác thực
những hành động quan liêu, phong kiến, bán nước và hủ bại của những
người cọng sản, nhất là trong cung cách suy tôn Hồ Chí Minh, kể cả đám
táng cái xác thối nằm ở Ba Ðình và những tuyên truyền lố lăng coi
thường dư luận trong và ngoài nước, đặc biệt là việc phung phí công khố
quốc gia, để bảo quản suốt mấy chục năm qua cái xác ướp của Hồ, rồi còn
lập chùa, đúc tượng đồng mạ vàng thật, để Hồ chểm chệ ngồi ngang hàng
với Phật-Thánh và Quốc Tổ Hùng Vương, hiện nay diễn ra khắp nước mà lố
lăng nhất là đám sư sải phường chèo đang bày trò khỉ đột, tại một ngôi
chùa quốc doanh trong tỉnh Bình Dương nằm sát Sài Gòn.
Bây
giờ, trước cánh cửa tri thức, điện toán và trên hết là sự giải mật phần
lớn các tài liệu có liên hệ tới những lãnh tụ chính trị, trong đó có
đảng cọng sản VN từ năm 1930 tới giờ. Bởi vậy khi đọc qua những tài
liệu có dính líu tới lịch sử, đã cho nhiều cảm xúc bất ngờ. Hơn ai hết,
người Bình Thuận-Phan Thiết không biết đã làm nên tội ác gì đến đổi
trời xui đất khiến, tạo nên nghịch cảnh éo le, trong màn kịch đồng song
chung khoá, giữa cử nhân Trương Gia Mô với Phó Bảng Phan Chu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng và Nguyễn Sinh Sắc. Rồi thì trong một chuyến đưa bạn
Trần Quý Cáp tới nhiệm sở Ninh Hòa, nhân tiện thẳng đường vào Phan
Thiết. Cũng từ đó đã gây cho hậu thế trăm năm sau, cái họa ‘anh thanh
niên Nguyễn Tất Thành ‘ dạy học tại trường Dục Thanh và xuất dương tìm
đường cứu nước.
Người
Phan Thiết vô cớ lãng xẹt khi phải làm nhân chứng bất đắc dĩ của một
thời đại nhiễu nhương ba xạo. Buổi trước ông cha ta vì bản chất an phận
thủ thường và trên hết là do nghịch cảnh một tròng bốn cổ, nên phải giả
vờ lấy vải thưa che mắt thánh, để miệng hoan hô đã đảo loạn ngầu cho an
thân. Trò hề trống đánh xuôi kèn thổi ngược hòa đồng trong tiếng trống
chầu của bọn hề chèo ngông nghênh viết lách, nhiều chuyện trên trời
dưới biển, vu vơ sáo rỗng, chỉ có tác động tuyên truyền ra oai, làm cho
người nay càng bi phẫn khinh miệt. Lịch sử, nhất là lịch sử VN đã dạy
cho hậu thế nhiều đạo lý làm người, nhất là trong thời đại mạt pháp,
mạt vận của dân tộc đang ngoi ngóp trong vũng bùn xã nghĩa VC .
Ai
cũng biết đảng CSVN hiện đang chới với trong sự lựa chọn làm đày tớ cho
Trung Cộng hay Hoa Kỳ. Tình hình bang giao giữa ba nước rất phức tạp
nhất là lúc Mỹ đang thay ngựa và khủng hoảng nội bộ về kinh tế, tài
chánh lẫn ý thức hệ chính trị. Tàu đỏ đã lợi dụng thời cơ ‘ ngàn năm có
một này ‘ tìm đủ mọi cách lôi kéo bác bộ phủ về phe mình, để thủ đắc
quyền lợi ‘ dầu khí và ngư nghiệp ‘ trên biển Ðông trong hải phận VN
tại hai quần đảo Hoàng Sa-Truờng Sa, hiện đang tranh chấp giữa nhiều
nước mà động lực gây cấn nhất vẫn là VN có Mỹ hứa hẹn giúp đở.
Về
cái được gọi là tài liệu của GS Hồ Tuấn Hùng ở Ðài Loan nói Hồ Chí Minh
đã chết trong nhà tù Hồng Kông vào năm 1932 và chứng minh có một người
Tàu gốc Hạ Phương tên Hồ Tập Chương thay thế Hồ tới khi y chết vào ngày
2-9-1969 tại Hà Nội. Thật ra câu chuyện cũng chẳng có gì mới mẽ vì đã
được nhiều sử sách trong và ngoài nước đề cập tới nhiều lần qua các
diễn đàn Nhưng điều quan trọng chắc chúng ta quên để ý là tại sao tin
nóng này, nay lại phải lựa đúng lúc VC đang chết sửng trong việc đu
giây giữa Tàu Ðỏ và Mỹ, mới công bố và công bố một cái tin cũ rích như
trên, thật sự với mục đích gì ?
Thậr
ra thì Hồ Chí Minh và bè lũ VC từ nhỏ tới lớn, có là người gì (Việt,
Tàu, Nga, Cu Ba, Bắc Hàn..) hay súc vật đầu thai, thì cũng chỉ thế thôi
: bán nước, hại dân, trộm cướp và đầu hàng kẻ thù làm nhục tiên tổ..
nên đâu có gì quan trọng mà phải gọi là ‘ nghi vấn thế kỷ ? ‘
1- BÍ SỬ DƯỚi TRIỀU HỒ :
Tới
bây giờ, dù sự thật lịch sử VN đã gần như phơi bày toàn vẹn trước ánh
sáng của nhân loại nhưng trong nước, hầu hết người dân kể cả người miền
Bắc, vẫn không biết đích thực ‘ Hồ Chí Minh ‘ là ai ? vì
từ lúc ra đời với cái tên Nguyễn Sinh Cung (Cuông), tới năm 1942 Hồ đã
thay tên đổi họ tới 26 lần ( Nguyễn tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy,
Linov, PC Lin, Hồ Quang, Vương Quốc Tuấn, Sáu Sán, Hồ Chí Minh..) .
Năm 1944 Hồ từ Côn Minh về nước, lúc đó chỉ mới 53 tuổi nhưng bắt buộc
mọi người gọi mình là ‘ Cụ’. Vì Trần Huy Liệu lúc đó đang giữ chức
trưởng ban tuyên truyền của đảng, thường nghe các cán bộ gốc Thanh,
Nghệ, Tỉnh mỗi khi gọi Hồ là ‘ Cụ’ lại phát âm như không có dấu nặng,
nên âm thanh rất chướng tai và bất nhã. Do vậy Liệu cấm mọi người gọi
Hồ là ‘ Cụ’ mà đổi thành ‘ Bác ‘ từ đó .
Về
chuyện tếu có liên hệ tới việc dân ta đã gọi ‘ bác Hồ ‘ là Người, cũng
lại được chính Hồ sáng tạo như đã tự mình viết sách ca tụng mình. Ðể
nhận chữ ‘ người ‘ Hồ bịa chuyện từ định nghĩa “ Nhân là thật thà yêu
thương, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào” , nên chữ nhân này là
Ðức Nhân, chứ không phải là chữ Nhân thông thường, dùng để chỉ con
người . Hởi ơi sự đời tráo trở đến thế là hết ý, vì ai cũng biết ‘ Nhân
giả nhân dã ‘ của triết lý Ðông Phương tự ngàn đời, nói về ‘ Ðức Người
‘.Chính Khổng Phu Tử cũng đã nhận rằng ‘ Nhân viễn hồ tai, ngã dục nhân
tư nhân chí hĩ ‘ ý ngài nói lòng Nhân đâu ở xa, nếu ta muốn thực hiện,
thì sẽ có ngay trước mặt. Ngoài ra ai cũng biết ‘ Ðức Nhân ‘ là sự kết
tụ tinh túy của mọi đức tính khác của con người như Trung, Tín, Trí,
Dũng, Nghĩa, Lễ , Cương Nghị, Hiền Lành..
Hồ
Chí Minh suốt một kiếp người, từ khi xuất dương năm 1911 tới lúc nhắm
mắt năm 1969, là một kẽ xảo ngôn, phô sắc, gian ác, hiểm độc, bán nước,
phản dân tộc, xét về tư cách và hành động, đích thật là một tiểu nhân.
Như vậy đương sự lấy gì, để tự mình cuồng điệu về Ðức Nhân, Lòng Khoan
Hồng Ðại Ðộ cùng với sự Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Công Bằng.. để bắt buộc
mọi người gọi Mình là Cụ, Bác và Người (viết Hoa) .
Sau
ngày 30-4-1975, bộ mặt thật của Hồ và Ðảng CSVN lần lượt rơi rớt vì đã
hết cơ hội để ‘ Bác ‘ tạo thêm sự nghiệp cứu nước, khi đòi độc lập và
thống nhất cho quốc gia dân tộc. Tất cả đã trở thành phường chèo trước
mắt của đồng bào miền Nam, khiến cho không ai, kể cả đám văn nô quốc
doanh, còn dám bẽ cong ngòi bút , để tuyên truyền dụ dổ những người nhẹ
dạ nhắm mắt chạy theo Hồ và đảng Cộng Sản như thuở hồng hoang buổi
trước :
‘ đồng bào hãy vùng lên
quyết tâm theo bác Hồ
nông dân sẽ có đất
người nghèo sẽ có ăn
gạo lúa sẽ đầy sân.. ’ ’ ’.
Bởi
vì các thế hệ VN, kể cả lớp người sinh sau cuộc chiến, đâu có ai quên
được những cuộc thanh trừng đẳm máu của Hồ và phe cánh, đối với những
người được gọi là đồng chí đồng đảng, để tranh giành quyền lực, trong
thâm cung bí sử triều Hồ. Ai quên được sự sát hại người Quốc Gia của
Hồ, trong Mặt Trận Việt Minh và những lần hòa hợp, hòa giải Quốc-Cộng,
suốt chín năm kháng Pháp. Ai quên được Hồ ra lệnh tàn sát hằng triệu
đồng bào vô tội ở miền Bắc, qua chiến dịch cải cách ruộng đất vào thập
niên 50, mà trong số này có rất nhiều người đã từng xã thân chống Pháp
, để dành độc lập cho dất nước và nửa mãnh sơn hà cho Hồ .
Ai
quên được xương máu VN của cả hai miền Nam Bắc, khi Hồ bày trò ‘ Ðánh
Mỹ-Ngụy cứu nước ‘.Thảm tuyệt nhất trong lịch sử Việt, cũng vẫn là
những vụ tàn sát đồng bào vào Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, trên các đại
lộ kinh hoàng Quảng Trị-Huế, Bình Ðịnh, Kon Tum-Pleiku và Bình Long-An
Lộc năm 1972 và khắp VNCH vào những ngày tháng 4-1975. Ai quên được các
cuộc tàn sát trả thù Quân Công Cán Cảnh VNCH của CS Hà Nội sau ngày
30-4-1975, các cuộc cướp giựt tài sản đồng bào Miền Nam VN qua những
lần đổi tiền, đánh tư sản, xuất cảng người vươt biển, lao động, làm
điếm.. để Hồ và Ðảng hoàn thành sự nghiệp cách mạng vô sản quốc tế, đưa
đất nước lên Xã Hội Chủ Nghĩa mạt rệp.
Nhưng
Hồ Chí Minh là ai và tới bây giờ đố ai biết được, ngoại trừ chính bản
thân của đương sự. Vì chỉ riêng năm sinh của ‘ bác’ theo các tài liệu
hiện hành đã có tới (5) thời điểm khác nhau như 1890, 1891, 1892, 1894
và 1895. Trong thông hành vào Liên Bang Sô Viết lần đầu, Hồ mang tên
Nguyễn tất Thành bí danh Chen Vang sinh năm 1895. Năm 1920, Hồ qua
thông hành mang tên Nguyễn Ái Quốc sinh năm 1894. Sau khi cướp được
chính quyền vào tháng 9-1945, Hồ Chí Minh công bố vào năm 1946, sinh
ngày 19-5-1890. Về ngày sinh của Hồ là 19-5 cũng là huyển hoặc, được
ngụy tạo vì nhu cầu chính trị mà thôi. Theo nhiều nguồn tài liệu được
phổ biến, thì sở dĩ Hồ bịa ngày sinh của mình là 19-5, để hôm đó bắt
nhân dân Hà Nội mở hội hoa đăng, nói là ăn mừng sinh nhật Hồ, mặt thật
là để đón tiếp Cao Ủy Pháp là Ðô Ðốc D’ Argenlieu khi hắn tới nơi này.
Cũng nhờ có cuộc đón tiếp long trọng trên, mà Hồ và thực dân Pháp đã
đạt được sự dồng thuận, cho phép quân Pháp từ Sài Gòn đổ bộ lên đất
Bắc, tiếp tục gây chến tranh. Có như vậy Hồ mới nhân danh là lãnh tụ
Mặt Trận Liên Hiệp Việt Minh, kêu gọi đồng bào cả nước kháng chiến
chống Pháp từ cuối năm 1946. Còn Pháp thi vin vào cớ Việt Minh gây
chiến, nên phải đánh nhau, chứ không phải vì muốn cướp nước VN như dư
luận thế giới đã lên án.
Ngoài
ra để danh chánh ngôn thuận như Phạm Văn Ðồng thường nói ‘ Bác là ánh
sáng dân tộc ‘ . Bắc Bộ Phủ đã sửa soạn cho Hồ rất chu đáo trước khi ra
diễn tuồng, Ðảng ra lệnh cho Cao Xuân Huy, Ðào Duy Anh, Trần Văn Giáp
.. ngay từ năm 1956, phải ngụy tạo cho ‘ bác ‘ một lá số tử vi, thật le
lói vì có chân mạng đế vương, cốt cách thần thánh. Có vậy Hồ mới tuyên
truyền dụ dổ được dân chúng Miền Nam theo Ðảng đánh Mỹ-Ngụy cứu nước.
Về
tướng diện của Hồ Chí Minh, qua các bức ảnh cũ trên báo chí sách vở lưu
hành trong và ngoài nước, trước năm 1955 là niên lịch Hồ sang Nga sửa
sắc đẹp. Theo tướng mệnh học, thì mặt Hồ thuộc loại tứ phủ trơ xương,
râu lơ thơ như râu tôm kho có thể đếm được. Trong các giác quan, đôi
tai không thay đổi từ lúc sinh ra cho tới chết và là biểu hiện đặc tính
của con người. Tai Hồ to thuộc loại luân quách phản, đó là tướng của
người bất nhân độc ác. Do hình tướng như vậy, nên trước năm 1955, mọi
người xếp Hồ vào loại ‘ Mặt Dơi Tai Chuột ‘.Và dù sau đó qua Nga sửa
mặt, cấy râu cấy tóc để có dung nhan của cha già dân tộc Nhưng tai Hồ
cho tới khi chết vẫn là tai chuột, vì khoa học thẩm mỹ thời đó bất lực.
Lịch
sử là sinh mệnh của dân tộc, nhờ nó mà người miền Bắc mới biết được sự
tàn khốc của chế độ Cộng Sản, khi Ho và Ðảng chiếm được nữa nước VN từ
bên kia cầu Hiền Lương chạy lên tới biên giới Hoa-Việt qua Hiệp Ðinh
Ngưng Bắn Genève năm 1954. Rồi ngày 30-4-1975 quân Bắc Việt vào Sài Gòn
và từ ấy đến nay (2008) nhờ lịch sử, người Miền Nam mới biết rõ bộ mặt
thật của Hồ và Ðảng là gì ?. Cho nên dù người Việt trong nước hôm nay
vì bị bóp họng bịt miệng khóa tay nên đã không thể ghi được những câu
chuyện thật của cận sử nhưng họ đã dồn hết gia thù quốc hận suốt bao
chục năm qua, thành những vết hằn lịch sử vong quốc trên từng khuôn
mặt, khóe môi, vừng trán, ánh mắt kể cả nụ cười của người dân đang sống
dưới cùm gông nô lệ. Ðó mới chính là sự bảo lưu quá khứ để biến thành
cái ‘ Thần ‘ của Việt Sử , một sự trái ngược hoàn toàn với những câu
chuyện ‘ Sử Ngụy Tạo ‘ của bồi bút Ðảng dành tâng bốc và phong thánh
cho lãnh tụ Hồ Chí Minh.
+ CHUYỆN DÀI CỦA HOÀNG ÐẾ HỒ CHÍ MINH QUA SÁCH BÁO ÐẢNG :
Cõi
thế vốn vô thường nên con người từ xưa tới nay không ai có thể thoát
được qui luật tử sinh, một điều tất yếu cho dù ai cũng đều khao khát
đến sự vĩnh cửu trường tồn, để kéo dài thêm sinh mệnh như trời đất. Ðể
đạt được khát vọng trường sinh bất tử, vua chúa Tàu ngày xưa đã không
ngớt đi tìm linh đan thần dược, giúp họ trở thành thiên thu bât hoại.
Tư Mã Thiên trong Sử Ký, có ghi lại cái chết đột ngột của Tần Thỉ Hoàng
khi đi tuần thú tại Sa Khâu. Lúc đó thừa tướng Lý Tư sợ có biến loạn,
nên không phát tang và bày kế cho người gánh cá thối đi kềm theo xe chở
xác nhà vua, để che mắt văn võ bá quan theo hộ tống. Bức tranh vân cẩu
trên đầy mai mĩa và bi thảm, nói về lòng tham vô giá của con người.
1955-1969
Hồ Chí Minh làm hoàng đế nửa nước VN nên đảng mặc sức tuyên truyền ,
chẳng những bằng hò vè thơ truyện, mà còn đề ra sách lược đánh bóng và
đưa lãnh tụ lên tận mây xanh, trong đó có những bịa đặt lịch sử địa
chất liên quan tới dân tộc Việt ngay từ thời Tổ Hùng dựng nước Văn
Lang. Ðây là mục đích chính của đảng CSVN, vì các vua Hùng khi được
chứng minh là có thật trong lịch sử Việt, sẽ tạo cơ hội cho Hồ có dịp
nói ‘ Các vua Hùng đã có công dựng nước, ‘ bác’ cháu ta phải cùng nhau
giữ nước ‘.Có như vậy, Hồ mới theo chân Lê Nin, Stalin cũng ướp xác,
xây lăng như các bậc đế vương thời trước, bắt quần chúng rồng rắn xếp
hàng chờ vào thi hành bổn phận ‘ chiêm ngưỡng một xác ướp ‘.
- NGUYỄN TẤT THÀNH : CON NGƯỜI TRĂM MẶT
Nhiều
năm sau ngày ‘bác’ lên ngai Chủ Tịch nhà nước, người ta mới biết được
cái tên Hồ Chí Minh, chỉ là một trong hằng trăm tên của Nguyễn Sinh
Cung hay anh thanh niên thầy giáo Nguyễn Tất Thành, đã có một thời gian
dạy học tại trường Dục Thanh, Phan Thiết, trước khi rời Bến Nhà Rồng ở
Sài Gòn, qua Pháp tìm đường cứu nước. Theo các sử gia cũng như các nhà
biên khảo nghiên cứu trong và ngoài nước, thì cho tới nay vẫn chưa ai
biết hết tất cả các bí danh của Nguyễn Tất Thành. Trước đó, căn cứ vào
tài liệu của Liên Xô, thì ‘bác’ có chừng 19 tên. Năm 1982, nhà biên
khảo Huỳnh kim Khánh nói ‘người’ có 32 bí danh. Một tác giả Việt Nam
khác kiểm kê được 76 tên của Hồ. Nói chung, không riêng gì tên họ, mà
cả ngày sinh và tên cúng cơm cũng vô cùng bí mật, không biết đâu mà mò.
Quả thật đây là một con người có nhiều tên nhất trên trái đất, từ cổ
tới kim, đông sang tây. Do không biết chính xác tên khai sinh khi lọt
lòng mẹ là Côn, Cuông hay Cung, vì vậy ta thấy sách vở đã chọn cái tên
Nguyễn Tất Thành như là một điểm tựa, nhất là sau năm 1983, ba cái đơn
của ‘bác’ bị phát giác.
Trong
số 100 tên, có lẽ cái tên ‘Nguyễn Ái Quốc’ xuất hiện lần đầu tiên tại
Paris là sôi động và đã gây ra không biết bao nhiêu tranh cãi, từ ấy
cho đến bây giờ, vẫn chưa chấm dứt. Ai cũng biết, nói láo và bịa chuyện
là bệnh nan y của người cọng sản, nhất là trong rừng sử sách của đảng,
nhằm thần thánh hóa lãnh tụ ‘Hồ Chí Minh’. Gạt bỏ những huyền thoại của
đảng viết về Bồi Ba, theo các nhà viết sử cho biết tới nay, họ vẫn còn
rất mù mờ về giai đoạn của Nguyễn Tất Thành từ năm 1911-1919, ngoài ba
chi tiết công khai: đó là Thành làm công trên tàu Latouche-Tréville của
hãng Ðầu Ngựa, sống tại nước Anh thời đệ nhất thế chiến (1914-1918) và
có mặt tại Pháp qua cái tên Nguyễn Ái Quốc trên . Người đã vậy, tên
cũng vậy, do đó các nhà viết sử cận đại, cũng đành vậy, nghĩa là cứ cho
rằng ngày 19-5 là ngày sinh của Nguyễn Tất Thành. Có như vậy, hằng năm
thiên hạ mới có dịp ‘ đào mồ cuốc mã tên đại phản quốc ‘ để rửa hận cho
quốc dân VN
- VỤ ÁN NGUYỄN ÁI QUỐC :
Về
vụ án lịch sử Nguyễn Tất Thành biếm xưng tên gọi của nhóm Nguyễn Ái
Quốc, khi Hồ sống tại Pháp từ 1911-1923, cũng đã được tranh cãi sôi nổi
giữa cơ quan tuyên truyền của đảng và nguồn dư luận trong cũng như
ngoài nưóc. Ðọc ‘Chủ tịch Hồ Chí Minh-tiểu sử và sự nghiệp’ do đảng ấn
hành, tuyên bố là tất cả những bài viết và tranh vẽ trên báo Le Paria
số 1, đều của Nguyễn Ái Quốc sáng tạo. Ta biết tờ Le Paria hay ‘Người
Cùng Khổ’ do Hội Liên Hiệp Thuộc Ðịa chủ trương, từ số 1 đến số 12 đều
do J.B Meyrat làm quản lý. Các số khác từ số 13 về sau do G.Sarotte và
Léopol Mesnard chịu trách nhiệm, đặc biệt số 1 ra ngày 1-4-1922 không
có một bài nào của Nguyễn Ái Quốc. Vậy mà Ban Nghiên Cứu Lịch Sử của
Trung Ương Ðảng VC, dám tuyên bố ‘bác’, tức là đồng chí Nguyễn Ái Quốc
làm quản lý tờ báo này. Ngoài ra cũng trên tờ Le Paria, có nhiều bài
viết hay tranh vẽ ký tên Nguyễn Le Patriote, là biệt danh của Nguyễn
Thế Truyền và các sinh viên trong Hội Ái Quốc An Nam, thế nhưng Ðảng
vẫn tỉnh bơ nhận bừa đó là sản phẩm của Nguyễn Ái Quốc.
Riềng
bài viết ‘Lên Án Chủ Nghĩa Thực Dân’ được đánh giá là một tài liệu
tranh đấu trác tuyệt về nội dung cũng như hình thức. Theo nhận xét, thì
lúc đó các nhân vật đấu tranh sống ở Paris, chỉ có Luật Sư Tiến Sĩ Phan
văn Trường và Kỹ Sư Nguyễn Thế Truyền mới có đủ khả năng Pháp ngữ cũng
như tư tưởng nhận thức để viết được một bài văn tranh đấu nẩy lửa hùng
biện như vậy. Còn Nguyễn Tất Thành mặc dù có sống giang hồ khắp nơi từ
1911-1922 nhưng dù sao trình độ học vấn cũng giới hạn, chỉ viết ba lá
đơn xin nhập học mà còn phạm nhiều lỗi chánh tả và văn phạm, thì không
thể nào là tác giả của kiệt tác trên. Phương chi, phóng đại vốn là nghề
của đảng, tâng bốc để bác vang danh với đời lại càng thêm thần thông
quảng đại hơn.
Bởi
vậy ngày nay, trước những khám phá về việc hoàn toàn bịa đặt một Nguyễn
Tất Thành đại thiên tài, từ một anh thanh niên giáo viên quèn tại một
trường làng, một bồi Ba trên tàu viễn dương, đùng một cái nhảy phóc lên
làm ông quản lý một tờ báo nổi tiếng, phát hành 5000 số một kỳ, lại còn
kiêm thêm họa sĩ và nhà văn... cho tới khi ‘bác’ sang Nga và Tàu từ năm
1923, vậy mà vẫn cứ làm quản lý và viết bài cho báo này tại Pháp cho
tới khi báo đình bản.
Tất
cả đều do Trần Dân Tiên dựng đứng câu chuyện về Nguyễn Ái Quốc, để thần
thánh hóa Hồ Chí Minh, mà cả ba tên đều là Nguyễn Tất Thành. Sự thật
ngày nay cho biết, Nguyễn Ái Quốc là tên gọi chung của nhóm người viết
trên tờ Người Cùng Khổ (Le Paria), gồm có Phan Chu Trinh, Phan Văn
Trường, Nguyễn Thế Truyền và trong suốt 38 số báo ấn hành, không có một
bài nào hay tranh vẽ của Nguyễn Tất Thành nhưng chàng đã láu cá nhận vơ
cái tên chung của nhóm là Nguyễn Ái Quốc. Sau đó được cơ quan tuyên
truyền của đảng CS hợp thức hoá ‘sáng lập và linh hồn hay quản lý báo’.
Chưa
hết, căn cứ theo sử liệu ta biết từ năm 1923-1946, Hồ đã rời Paris đi
Mạc Tư Khoa, Tàu trong lúc đó, vào tháng 1/1926 tại Paris đã xuất hiện
tờ Việt Nam Hồn bằng chữ quốc ngữ, thỉnh thoảng có các bài bằng Hán và
Pháp Ngữ. Từ tháng 9-1929 lại đổi tên là Phục Quốc, do cơ quan ngôn
luận của dảng Việt Nam Ðộc Lập tại Pháp ấn hành. Trong một vài số báo,
có bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc. Sự kiện lịch sử minh bạch như vậy mà
đảng vẫn thản nhiên viết là năm 1923, ‘bác’ tại Pháp trong khi thành
lập tờ ‘Người Cùng khổ’ đã kiêm nhiệm thêm tờ ‘Việt Nam Hồn’. Những sự
thật thì không ai có thể thêm bớt, bóp méo hay xuyên tạc được. Cho nên
những lố lăng về huyền thoại Hồ Chí Minh, ngày nay rốt cục đã trở thành
những trận cười trong dân gian, dù nó tồn tại hay bị sóng đời vùi dập.
(còn tiếp phần 2)
Xóm Cồn Hạ uy Di
Tháng 12-2008
MƯỜNG GIANG
|