Chính
sách tôn giáo hiện nay của nhà cầm quyền cộng sản là chính sách gì?
Nâng đỡ tôn giáo? Tôn trọng tự do tôn giáo ? Đàn áp tôn giáo? Tiêu diệt
tôn giáo? Tôn giáo là thuốc phiện? Tôn giáo sống bình đẳng với đảng
Cộng sản? Các tác phẩm lý luận kinh điển Marx – Engel, Lénin nói gì về
phạm trù tôn giáo, về sự sống chung giữa tôn giáo và Xã hội chủ nghĩa?Bao
nhiêu là câu hỏi đã được trả lời làm sao trong thực tế dân sinh dưới
các nhà nước Cộng sản ? Đây chính là nội dung cuộc trao đổi phỏng vấn
ông Võ Văn Ái do ký giả Triều Thanh thực hiện trong mục « Câu Chuyện
Cuối Tuần » trên Đài Phật giáo Việt Nam phát thanh vể Việt Nam hôm tối
thứ sáu 5.12.2008.Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế chép lại
dưới đây cuộc phỏng vấn này để cống hiến bạn đọc một đề tài nóng bỏng
của những người theo tôn giáo tại Việt Nam :Đảng tính và Phật tínhTriều Thanh : Xin mời quý thính giả Đài Phật giáo Việt Nam nghe Câu Chuyện Cuối Tuần với ông Võ Văn Ái về « Đảng tính và Phật tính ».Thưa
ông Võ Văn Ái, Phật giáo đang trải qua thời kỳ hắc ám dưới chế độ Cộng
sản. 53 năm Phật giáo miền Bắc tan tát dưới chế độ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa của nhà Hồ. 33 năm Phật giáo miền Nam tan tát dưới chế độ Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một bên theo Đảng tính, một bên là Phật
tính. Điều gì khác nhau giữa Đảng tính và Phật tính khiến cho Phật giáo
lâm Pháp nạn như ngày nay, thưa ông? | Ông Võ Văn Ái | Võ Văn Ái
: Đảng tính nhìn con người qua nhãn quan đấu tranh giai cấp, nên sử
dụng năng lực căm thù làm động cơ hành động nhằm thay đổi xã hội loài
người. Phật tính phát hiện con người chân thiện mỹ trong một thế giới
bình đẳng, khoan dung. Ai cũng có Phật tính, nên ai cũng là Phật sẽ
thành nếu biết thực hiện con đường Phật trên mặt đất. Để thành Phật, để
giác ngộ và cứu độ quần sinh người Phật tử sử dụng năng lượng từ bi và
trí tuệ để tịnh độ hóa nhân gian.Ước muốn thay đổi xã hội của
người cộng sản có Đảng tính là một thiện chí, nhưng hành động theo động
cơ căm thù lại dẫn tới sự giết người thay vì cứu người.Chí
hướng giải thoát mình để hoàn thành việc cứu người của kẻ có Phật tính
không xuất phát từ căm thù, mà thể hiện lòng từ bi và trí tuệ để cứu
người. Nếu có phải giết thì chỉ giết sự thảm sát. Triều Thanh
: Những năm đầu độc lập, ông Hồ Chí Minh từng phát biểu : « Bọn thực
dân Pháp muốn cướp nước ta. Chúng đốt chùa chiền, phá tượng Phật, hành
hạ Tăng Ni, tàn sát đạo hữu. Chúng hòng phá tan đạo Phật. Đức Phật là
đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn
Người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma. Nay đồng bào ta đại đoàn
kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực
dân phản động, để cứu quốc-dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất
và độc lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của
Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô
lệ ». Một lời tuyên bố như thế có thể xem như Đảng tính người Cộng sản
đã gặp Phật tính người Phật tử, phải không thưa ông?Võ Văn Ái
: Muốn biết một lời tuyên bố của các chính trị gia thật hay giả, thật
đến mức độ nào, thì đừng nghe qua lỗ tai thôi, mà còn phải nhìn bằng
mắt lời nói ấy trong hành động thực tiễn. Tôi nhớ lời tuyện bố mà nhà
báo vừa trích dẫn nằm trong Thư gửi Hội Phật tử Việt Nam của ông Hồ Chí
Minh công bố ngày Rằm tháng 7 năm Đinh Hợi, tức ngày 30.8.1947.Nghe thì hay và cảm động. Nhưng mở mắt nhìn ta thấy gì?Tại
miền Nam từ 33 năm qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đang
sống cảnh bị áp bức như ông Hồ miêu tả, không bị thực dân Pháp áp bức
mà là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam « đốt chùa chiền, phá tượng
Phật, hành hạ Tăng Ni, tàn sát đạo hữu, hòng phá tan đạo Phật ».Năm
1947, ông Hồ Chí Minh kêu gọi Phật giáo đồ noi gương Đức Phật Thích Ca
« hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma », và « đánh tan thực dân phản động,
để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc lập của
Tổ quốc ». Có như thế mới « làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật
Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ ».Từ
năm 1945 đến nay, chư Tăng Ni, Phật tử chỉ làm những việc ông Hồ Chí
Minh mong đợi. Nhưng những người kế nghiệp ông Hồ trả ơn bằng thảm sát,
tù đày, đàn áp nhằm tiêu diệt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất,
bôi nhọ Phật giáo « làm chính trị ». Trong khi Phật giáo chẳng làm chi
khác hơn những điều ông Hồ Chí Minh kêu gọi năm 1947, tức « cứu quốc
dân ra khỏi khổ nạn, đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ ». Không gì
mâu thuẫn và ác độc hơn.Điều quan trọng cần nhớ là năm 1947 số
đảng viên theo ông Hồ chừng 5000 người, không sao đảm đương cuộc kháng
chiến toàn quốc chống Pháp giành độc lập. Nên ông Hồ Chí minh phải thoa
vuốt, gọi mời khối lượng 80% quần chúng Phật giáo và các tôn giáo khác.
Nay Đảng viên của ông có khoảng 3 triệu, chính quyền nằm trong tay,
trong túi, đủ để bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho đảng. Nên Cộng sản không
cần quần chúng nữa, hoặc chỉ cần để làm trâu ngựa phục vụ cho một đảng
ngoại lai.Triều Thanh : Như vậy thì chính
sách tôn giáo của đảng cộng sản là chính sách gì ? Người ta thường nói
Cộng sản xem tôn giáo như thuốc phiện, nên chính sách tôn giáo là một
chính sách tiêu diệt tôn giáo, ông nghĩ sao?Võ Văn Ái
: Mệnh đề « tôn giáo là thuốc phiện » là câu Marx đánh giá tôn giáo hữu
thần Tây phương. Câu này nằm trong cuốn « Phê phán Triết học Pháp quyền
của Hegel » (Kritik der Philosophie des Rechts). Nó không bao hàm các
tôn giáo Đông phương, lại càng không nhắm chỉ Phật giáo.Nói tới
chính sách tôn giáo của nhà nước cộng sản là đặt ra công án Tôn giáo và
Xã hội chủ nghĩa có thể cùng chung sống không? Đây là vấn đề lớn mà các
tác phẩm lý luận kinh điển của Marx – Engel chưa có lời giải đáp. Ngay
cả Lénin là lý thuyết gia và nhà hành động cộng sản cũng chưa đề cập
tới.Vì sao? Vì kiến thức các triết gia cộng sản về tôn giáo rất
hạn chế. Cho nên Nhà nước Xã hội chủ nghĩa chưa bao giờ có chính sách
tôn giáo đứng đắn. Các triết gia cộng sản xuất hiện vào thế kỷ XIX lo
đối đầu trên phương diện lý thuyết để phê phán vấn đề thời đại là nền
kinh tế tư bản trên đà kỷ nghệ hóa. Do đó, một là các triết gia cộng
sản không nắm đủ kiến thức tôn giáo phát khởi từ thời bình minh lịch
sử, hai là đề cập tôn giáo như một bộ phận trong tiến trình suy tưởng
triết học thời Khai sáng, và ba là hạn chế tôn giáo ở khu vức hữu thần
Tây phương. Chưa là tôn giáo trong nghĩa toàn diện và toàn cầu. Triều Thanh
: Nói như vậy thì tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam lại tuyên bố : « Tôn
giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù
hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới ». Đây có phải là nhận định mới
về tôn giáo, nhờ đó đẻ ra chính sách tôn giáo mới ? Ông có đồng ý như
vậy không?Võ Văn Ái : Đây là câu nhận
định trong Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị sau Đại hội Đảng lần thứ VII
hồi tháng 6 năm 1991. Tôi đồng ý là có mới với đảng Cộng sản. Nhưng
không mới với tôn giáo. Nguyên do đảng Cộng sản không vượt qua được trở
lực kếch sù của tôn giáo. Không khuất phục được tôn giáo thì đành phải
nhìn nhận tôn giáo. Nhưng sự nhìn nhận này chỉ có tính chiến thuật theo
mô thức Lénin, lùi một bước để tiến ba bước.Còn nói không mới
với tôn giáo là vì chẳng có chi thay đổi. Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất vẫn tiếp tục bị đàn áp dù có tinh vi hơn trước.Cái
gọi là nhận định mới, hay chính sách mới này, mấy ông lý thuyết gia
cộng sản ở Hà Nội không nghĩ ra được đâu. Mấy ông bắt chước Tàu đấy. Ai
cũng biết cộng sản Việt Nam là người học trò ngoan ngoãn của ông thầy
Trung Cộng. Điều gì xẩy ra tại Trung quốc, là cộng sản Việt Nam sẽ bắt
chước theo. Quá khứ ta đã thấy bắt chước phong trào Chỉnh phong của
Trung Cộng khi phát động Rèn Cán Chỉnh Quân, rồi Cải Cách Ruộng Đất,
rồi Trăm Hoa Đua nở nhằm tiêu diệt phái hữu, v.v... Toàn là những âm
mưu hại dân. Chữ âm mưu, mà Mao Trạch Đông tự mãn gọi là dương mưu. Một
thứ dương mưu giết người.Triều Thanh : Ông có thể giải thích rõ hơn về việc Hà Nội bắt chước Trung Cộng về vấn đề tôn giáo như thế nào?Võ Văn Ái
: Như trên tôi đã nói, mệnh đề tôn giáo và xã hội chủ nghĩa có thể cùng
chung sống không, là vấn đề lớn nhưng các tác phẩm lý luận từ Marx –
Engel đến Lénin chưa có lời giải đáp.Mãi cho tới thập niên 80
thế kỷ trước, mệnh đề này mới được ông Hồ Kiều Mộc, Viện trưởng Viện
Khoa học Xã hội Trung quốc, đề cập lần đầu và đưa ra đáp án. Tuy nhiên
đáp án này chỉ là phương lược tiêu diệt tôn giáo một cách tinh vi. Tức
là dùng tôn giáo phục vụ cho Nhà nước Cộng sản. Y hệt như Giáo hội Phật
giáo Nhà nước dựng lên tại Hà Nội năm 1981 để làm công cụ chính trị cho
Đảng Cộng sản thay vì phục vụ quần chúng Phật giáo. Tinh vi ở chỗ nó
kết hợp lý thuyết với bạo lực để đàn áp hữu hiệu.Triều Thanh : Lý thuyết Tàu của ông Hồ Kiều Mộc ra sao?Võ Văn Ái
: Ông Hồ Kiều Mộc đề xuất phương châm « Tôn giáo không thích ứng với Xã
hội Chủ nghĩa thì không thể tồn tại ». Ông định nghĩa tôn giáo « là một
tiểu hệ thống nằm trong chỉnh thể của hệ thống xã hội » tức « một tiểu
hệ thống thứ cấp », loại công dân hạng hai. Từ định nghĩa này ông lý
luận « Hệ thống xã hội là một cơ thể, nó không chấp nhận một tiểu hệ
thống nào hoàn toàn đối lập với bản thân nó ». Bộ phận phải thích ứng
với chỉnh thể, nói rõ là tôn giáo phải thích ứng với chủ trương, đường
lối của nhà nước cộng sản, từ suy tư đến hành động.Xem thế thì
nhân sinh quan và vũ trụ quan của Phật giáo hay bất cứ tôn giao nào
không có chỗ đứng trong hệ thống ý thức cộng sản. Phật tính phải vứt bỏ
để ôm lấy Đảng tính nếu muốn sống còn.Ông Hồ Kiều Mộc chẳng cần
che giấu âm mưu tiêu diệt tôn giáo khi tuyên bố rằng « Tôn giáo cùng
chung sống với Chủ nghĩa Xã hội, có nghĩa là tôn giáo phải thích ứng
với các phương diện của Chủ nghĩa Xã hội như : chính trị, kinh tế, văn
hóa, nghệ thuật, giáo dục… » Ông còn nhấn mạnh « sự thích ứng của tôn
giáo với chính trị là mấu chốt ».Triều Thanh
: Lý luận theo cách này là gạt bỏ hết mọi lý tưởng của tôn giáo hay sao
? Nếu đúng vậy thì quần chúng tôn giáo đâu có thể chấp nhận?Võ Văn Ái
: Rồi cũng phải chấp nhận. Bạo lực và bạo quyền nẩy sinh ra cái sợ.
Quần chúng có lý trí bao nhiêu vẫn bị cái sợ chi phối, khiến họ ngậm
miệng và bó tay. Một số chư Tăng và Phật tử đang thỏa hiệp hiện nay với
nhà nước cộng sản biểu thị sự sợ hãi này, chưa kể thêm mối tham lam lợi
dưỡng.Tuy nhiên lý thuyết gia tôn giáo Trung cộng không kém
phần giảo hoạt khi ông dùng lý luận để trói tay tôn giáo. Ông công nhận
yếu tố tự thân của tôn giáo, nhưng lại chuyền cái tự thân của tôn giáo
thành công cụ phục vụ chế độ. Ông Hồ Kiều Mộc phân tích rằng : « Mỗi
loại tôn giáo đều bao gồm một bộ phận tổ hợp với hai nhân tố thống nhất
: Khả biến và Bất biến. Bộ phận hạt nhân của của hình thái ý thức tôn
giáo là bộ phận bất biến của tôn giáo ».Như thế là nhà nước
cộng sản công nhận cái bất biến, tức bản chất của tôn giáo. Họ không
động tới bản chất này. Kiểu như ông Hồ Chí Minh đề cao « Đức Phật là
đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn »
nhưng lại cho bọn thủ túc chống báng Phật giáo .Lý thuyết gia
Hồ Kiều Mộc để yên cái bất biến, nhưng dùng cái Khả biến của tôn giáo
để thay đổi tôn giáo theo phạm trù cộng sản. Ông lý luận rằng « Hình
thái tư tưởng thần học tôn giáo là bộ phận khả biến của tôn giáo. Nó có
thể thích ứng với cải cách xã hội ». Ông dùng một danh từ rất thuyết
phục để gọi cái khả biến này là « Cơ chế tái sinh tự thân của tôn giáo
». Phải hiểu tái sinh trong nghĩa biến tướng tôn giáo.Triều Thanh
: Nhưng Bất biến hay Khả biến đều đến từ tôn giáo, thì làm sao cộng sản
có thể thay đổi được lý tưởng tôn giáo như trường hợp Phật giáo chẳng
hạn?Võ Văn Ái : Ta phải hiểu thâm ý của
lý thuyết gia Hồ Kiều Mộc là Nhà nước cộng sản công nhận phần bất biến
của tôn giáo. Song họ giật dây phần khả biến để khuynh loát tôn giáo,
biến tướng tôn giáo.Thử lấy một ví dụ cho dễ hiểu. Cùng là một
vị Sư thuyết pháp về hình tượng Phật giáo, nhưng khi Sư Chơn Quang ở
Việt Nam đang thuyết pháp theo điều sau đây thì còn chi là hình tượng
tâm linh Phật giáo ? Tôi xin trích nguyên văn từ băng ghi, sư Chơn
Quang đề cao Bác Hồ trong bài giảng, sư nói : « Bác Hồ sống vô cùng đơn
giản. Sống, ăn uống thì đạm bạc vì ổng tu mà. Ổng vậy, chớ không biết
cái bí mật là mỗi đêm Bác Hồ vẫn ngồi thiền. Khi Bác chết lục trong cái
đôn của Bác không có cái gì hết, chỉ có cái xâu chuỗi và cuốn Lăng Già
Tâm ấn bằng chữ nho. Ông Võ Nguyên Giáp nói cho biết Bác Hồ là một
Thiền sư ».Thuyết pháp cách đó là tạo ra cái Khả biến của thứ
Phật giáo tạp nhạp, để Phật giáo không còn là Phật giáo nữa. Sư Chơn
Quang không là trường hợp đơn lẻ đâu. Trong nước và ngoài nuớc hiện
nay, nếu nhìn cho kỹ, nghe cho rõ, sẽ thấy rất đông những ông Thiền sư.
Thiền sư là cái mốt thời trang, ai cũng có thể thành thiền sư chẳng cần
tu học, tu hành theo giáo lý của đức Phật. Một tập thể Thiền sư đang là
những viên chức lập thành « bộ phận khả biến tôn giáo » theo lý luận
ông Hồ Kiều Mộc.Triều Thanh : Vì sao ông Hồ Kiều Mộc phải nhọc công lý luận, thay vì thẳng tay đàn áp để tiêu diệt tôn giáo?Võ Văn Ái
: Chính quyền cộng sản làm chủ Trung quốc từ năm 1949. Họ từng đàn áp
tôn giáo mãnh liệt lắm chứ. Cách mạng Văn hóa là cao điểm của hành động
tiêu diệt tôn giáo, và giới trí thức Trung quốc. Nhưng Trung cộng đã
hoàn toàn thất bại trong việc dẹp tan tôn giáo.Ngày nay thế giới
bước vào kỷ nguyên toàn cầu, đối thoại, hợp tác. Đảng cộng sản không
thể múa gậy vườn hoang mãi được. Cho nên phải có lý thuyết mới để làm
tiêu trầm tôn giáo bằng phương cách mới. Chính ông Hồ Kiều Mộc cũng
phải sợ yếu tố tôn giáo khi ông nhận định ba nguyên tố phát huy quốc
gia : « Cải cách, Phát triển, Ổn định », ổn định là tiền đề của tất cả,
thiếu nó sẽ không thực hiện được sứ mệnh cải cách và phát triển. (…)
Chính tôn giáo trong những điều kiện nhất định, là con đường tốt nhất
để duy trì sự ổn định xã hội. Bởi vì 1/10 dân số Trung quốc là quần
chúng tôn giáo, do vậy hành vi của quần chúng tôn giáo có ảnh hưởng
quan trọng đối với sự ổn định xã hội ». Qua nhận định như vậy, ta thấy
Cộng sản rất sợ tôn giáo. Vì tôn giáo là quần chúng, là lực lượng
chuyển hóa. Đảng chỉ là thiểu số đang ngày càng teo tóp. Triều Thanh : Xin ông một lời kết luận cho Câu Chuyện Cuối Tuần kỳ này?Võ Văn Ái
: Cổ nhân nói biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Biết được lý
luận và phương cách tiêu diệt tôn giáo của người Cộng sản, là đã ngăn
chặn được 50% sự tác hại. 50% còn lại là ý lực và hành hoạt của người
tôn giáo để vượt thắng sự tấn công cộng sản. Mặt khác, tuy ông Hồ Kiều
Mộc đánh giá thấp số lượng quần chúng tôn giáo tại Trung quốc, thực tế
lớn hơn nhiều, nhưng ông ta vẫn sợ hãi quần chúng tôn giáo.Còn
tại Việt Nam, chỉ lấy số lượng do Nhà nước cộng sản công bố năm ngoái
thôi, hiển nhiên con số này bị hạ thấp tối đa, thì đã có 25% dân số
Việt Nam là quần chúng tôn giáo. Từ đây kết luận rút ra, là sự ổn định
xã hội như một tiền đề của cải cách và phát triển đất nước nằm trong
tay các tôn giáo. Ý thức được như vậy, các tôn giáo tại Việt Nam mới
thấy vai trò chủ yếu của mình trong việc chuyển hóa đất nước để có viễn
kiến và kế hoạch trong những tháng ngày tưởng như tăm tối hôm nay.Triều Thanh : Xin cám ơn ông Võ Văn Ái và xin hẹn quý thính giả ở Câu Chuyện Cuối Tuần vào thứ Sáu tuần tới, cũng vào giờ phát thanh này.
|