Có người cho
rằng công bằng là cào bằng từ trên xuống dưới. Người khác lại nghĩ công bằng
chính là xây dựng từ dưới lên trên. Vậy công bằng là gì ? Đâu là 2 quan niệm
trên về công bằng ?
I ) Công bằng
là gì ?
Công bằng là
ngay thẳng và bằng phẳng, chỉ đức tính của một người ăn ở ngay thẳng, không
thiên vị một ai ; như một ông quan tòa xử án công bằng có nghĩa là xử án không
thiên vị một ai.
I I ) Quan niệm
công bằng là cào bằng từ trên xuống dưới
Người ta có thể
nói đây là quan niệm của K. Marx và của những người theo Đệ Tam Quốc tế Cộng
sản, bắt đầu bằng Lénine.
Marx chủ trương
bãi bỏ quyền tư hữu, lịch sử là lịch sử của đấu tranh giai cấp, lịch sử của bạo
động, dùng bạo động để san bằng giai cấp. Những đồ đệ của Marx, nhất là những
người theo Đệ Tam, sau khi dùng vũ lực, cướp đưọc chính quyền, đánh tư bản mại
sản, cào bằng xã hội từ trên xuống dưới ; nghĩ rằng sẽ mang lại công bằng cho
mọi người ; nhưng thực tế hoàn toàn trái ngược lại ; vì nó bắt nguồn ngay từ một
số sai lầm lớn của Marx. Ở đây tôi không đi sâu vào việc phê bình lý thuyết của
Marx (1). Tôi chỉ đại lược nêu lên một vài cái chính. Đó là quyền tư hữu không
thể bãi bỏ, mà quyền tư hữu chỉ có thể chuyển nhượng. Sau khi cướp được chính
quyền, người cộng sản, áp dụng lý thuyết của Marx, đánh tư bản mại sản, nghĩ
rằng là bãi bỏ quyền tư hữu ; nhưng thực tế quyền tư hữu đã chuyển nhượng từ tay
đại đa số dân, sang tay thiểu số đảng đoàn cán bộ. Xã hội cộng sản không trở nên
công bằng, mà lại trở nên vô cùng bất công : đại đa số dân thì bị tước quyền tư
hữu, trở nên nghèo đói ; trong khi đó, một thiểu số cán bộ cộng sản được trao
quyền tư hữu, trở nên những ông tư bản đỏ, vô cùng giầu có.
Thực tế ở những
nước cộng sản từ trước tới nay cho ta thấy rõ điều này.
Marx cho rằng
quyền kinh tế quyết định quyền chính trị và những quyền khác. Thực tế cộng sản
chứng minh hoàn toàn ngược lại, những người nắm quyền chính trị quyết định tất,
không chỉ kinh tế mà cả đời sống người dân, tài sản quốc gia.
Marx cho rằng
sau khi cách mạng cộng sản, thì Nhà nước tự tan biến, chữ mà Engels và Marx dùng
là Nhà nước tự tắt ( l’Etat s’éteint). Nhà nước cộng sản không tự tắt, như Marx
không tưởng mơ ước, mà càng ngày càng to lớn đàn áp, gieo rắc càng nhiều bất
công.
Những sai lầm
của Marx và của Đệ Tam quốc Tế Cộng sản cùng với những hậu quả của nó đã có
nhiều người từ Âu sang Á nhìn thấy.
Ở Âu châu, 2
người tiêu biểu là ông Proudhon và bà Rosa Luxembour. Ở Á châu 2 người tiêu biểu
là cụ Phan bội Châu và tướng Tưởng giới Thạch.
Pierre Joseph
Proudhon ( 1809-1865), sinh trưởng trong một gia đình thợ thuyền, lúc nhỏ ông
làm thợ xắp chữ, sau đó làm thợ in, rồi làm báo. Lúc đầu ông kết án quyền tư hữu
trong quyển Quyền tư hữu là gì ( Qu’est – ce que la propriété ), xuất bản năm
1840. Chính vì vậy mà đã được sự khen ngợi của K. Marx (1818-1883) : « Một sự
can đảm có tính cách khiêu khích đã tấn công ngay vào thành trì của kinh tế. »
Tuy nhiên sau này ông ý thức rằng quyền tư hữu không thể bãi bỏ, mà chỉ có thể
chuyển nhượng ; và nên tránh sự lạm dụng quá độ của quyền tư hữu. Chính vì vậy
mà ông viết quyển Triết lý về sự nghèo khổ hay Hệ thống của những mâu thuẫn kinh
tế ( La Philosophie de la misère ou Système des contradictions économiques),
xuất bản năm 1846. Marx đã trả lời bằng cách viết quyển Sự Nghèo nàn của triết
học ( Misère de la philosophie ).
Proudhon chủ
trương chế độ vô trị ( anarchisme) ; Marx chủ trương chế độ cộng sản (
communisme) ; vì vậy nên ông nhìn thấy rõ sự sai lầm và ảo tưởng của Marx, khi
ông này chủ trương độc tài vô sản và ảo tưởng nghĩ rằng khi vô sản nổi lên làm
cách mạng, bãi bỏ quyền tư hữu, tức bãi bỏ giai cấp ; và một khi giai cấp bị bãi
bỏ thì Nhà nước tự biến mất. Thực tế cộng sản cho ta thấy Nhà nước cộng sản
không tự tắt mà càng ngày càng to lớn và đàn áp dân nhiều hơn. Đây là cái nhìn
sáng suốt của Proudhon, chính vì vậy ông đã nói, nếu lý thuyết của Marx được áp
dụng thì nó sẽ trở nên con sán lãi ( le ténia) của xã hội. Chúng ta đã biết
người bị bệnh sán lãi có những con giun ở trong ruột và bao tử ; nó đã hút hết
chất bổ của bệnh nhân, làm cho cơ thể cuả họ không phát triển nổi, bụng to ra,
da trở nên vàng vọt.
Không cần đi
sâu vào lý thuyết và lý luận dài dòng ; chúng ta chỉ cần nhìn thực tế cộng sản
từ ngày Lénine cướp chính quyền 1917 tới nay. Tại các nước cộng sản có 2 chính
phủ ăn lương từ thuế của dân : một chính thức, một bán chính thức là đảng cộng
sản còn to lớn và quyền hành, ăn lương và có nhiều bổng lộc hơn chính quyền
chính thức. Đây chính là con sán lãi của xã hội cộng sản mà Proudhon đã nhìn
thấy.
Người tiêu biểu
thứ nhì nhìn thấy những sai lầm của Lénine và của chế độ cộng sản là bà Rosa
Luxemboug ; mặc dầu bà là bạn của Lénine ; 2 người cùng đấu tranh ở Âu châu,
trong Đệ Nhị quốc tế Cộng sản.
Bà sinh năm
1870 và bị ám sát chết năm 1919, là người Đức, gốc Ba lan, hoạt động lúc đầu
trong đảng Cách mạng Vô sản Ba Lan ; chính vì vậy bà phải rời xứ, hoạt động ở
Đức. Bà chỉ trích quan niệm cải cách của Bernstein, lý thuyết gia của đảng Dân
chủ Xã hội Đức ; khi bà viết quyển Cải cách hay Cách mạng ( Réforme sociale ou
Révolution). Bà hoạt động rất mạnh trong phong trào thợ thuyền Âu châu. Bà bị tù
2 lần (1915-16) và (1916-18). Mặc dầu ở trong tù bà vẫn tiếp tục đấu tranh và
theo dõi rất sát tình hình bên ngoài, nhất là việc làm của Lénine. Nhận thấy
hành động độc tài của Lénine khi lập nên đảng và Nhà nước độc tài cộng sản ;
cùng hành động Lénine giải tán Quốc hội Lập hiến được dân Nga tự do bầu ngày
18/1/1918 ; chỉ vì người của Lénine bị rơi vào thiểu số. Bà không ngần ngại viết
thư cho Lénine mà người ta tìm thấy trong nhật ký của bà, trước khi chết :
« Cái đảng và
Nhà nước độc tài mà Anh lập ra ; Anh bảo nó phục vụ thợ thuyền và người dân ;
nhưng trên thực tế, nó chẳng phục vụ một ai ; vì nó đã đi ngược lại những nguyên
tắc căn bản của xã hội chủ nghĩa ; đó là tôn trọng tự do và dân chủ. »
Dân Đức và nhất
là đảng Dân Chủ Xã hội Đức coi bà như một ân nhân và là một trong những người
chính sáng lập ra đảng này.
Có người khi
nói đến xã hội chủ nghĩa hay cộng sản chủ nghĩa là nghĩ chỉ có Marx, Lénine và
Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản. Thât ra không phải vậy, còn có Đệ Nhất, Đệ Nhị và Đệ
Tứ Quốc tế Cộng sản. Những người như Kautski, Lassalle và bà Rosa Luxemboug cùng
nhiều người khác cũng là theo xã hội chủ nghĩa ; nhưng là Đệ Nhị. Trotski, người
giữ vai trò chính trong việc cướp chính quyền năm 1917 ở Nga, bị Staline cho
người theo dõi rồi giết ở Mễ tây cơ, là người thành lập ra Đệ Tứ, tố cáo Staline
là phản lại cách mạng. Những đảng Xã hội ở Pháp, Lao động ở Anh, Dân chủ xã hội
ở Đức và nhiều đảng Xã hội nữa ở những nước Bắc Âu, hiện nay trong Quốc Tế Xã
hội, là hậu duệ của Đệ Nhị Quốc Tế Cộng sản và họ lên án kịch liệt Lénine và
những người Đệ Tam là đã phản lại lý tưởng xã hội, đã chủ trương độc tài, như bà
Rosa Luxembourg đã kết án Lénine.
Thêm vào đó chữ
xã hội chủ nghĩa hay cộng sản chủ nghĩa chỉ là một. K. Marx và Engels đã dùng
lẫn lộn 2 chữ trong bản Tuyên Ngôn thư đảng Cộng sản. Engels viết quyển Xã hội
chủ nghĩa khoa học và chủ nghĩa xã hội không tưởng ( Socialisme scientifique et
Socialisme utopique ) là để chỉ chủ nghĩa cộng sản.
Ở Á châu, 2
người tiêu biểu hiểu sớm sự sai lầm và nguy hiểm của chủ nghĩa cộng sản là cụ
Phan bội Châu và tướng Tưởng giới Thạch.
Phan bội Châu (
1867-1940 ) :
Sau khi cướp
chính quyền, rồi thanh lập Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản năm 1919, lúc đầu Lénine theo
chiến lược của Marx đó là đánh những nước tư bản ngay tại chính nước họ ; nhưng
Lénine thấy không thành, vì những vụ nổi lên ở Đức, ở Hung gia lợi đều thất
bại ; năm 1921, Lénine ký hiệp ước thương mại với Anh ; từ đó Lénine đổi chiến
lược, từ trực tiếp qua gián tiếp, đánh gián tiếp tư bản từ các nước thuộc địa.
Đây phải chăng là một sự thành thật của Lénine hay chỉ là một sự giả dối, vì từ
trước đến giờ Lénine vẫn kết án các nước tư bản mà dẫn đầu là Anh quốc ; nay ký
hiệp ước thân thiện trao đổi thương mại với Anh, có nghĩa là đầu hàng tư bản ;
nên phải tìm cách bào chữa, nói rằng bây giờ đánh tư bản một cách gián tiếp. Có
nhiều người đặt câu hỏi khi Lénine đưa ra chiến lược gián tiếp này, Lénine có
tin tưởng là nó sẽ đi đến chiến thắng hay không ; vì Lénine là người tôn sùng
Clausewitz (1781-1831), nhà tư tưởng quân sự nổi tiếng của Đức. Quyển Bàn về
Chiến tranh ( De la Guerre ) của ông đã được Marx và Engels coi như sách gối đầu
giường. Theo Clausewitz, thì trong chiến tranh, chiến lược phòng thủ có ưu thế
hơn chiến lược tấn công, nhất là phải tấn công từ xa ; vì ông đã tham chiến và
tận mắt chứng kiến sự thất bại của quân đội Napoléon khi tấn công Nga năm 1812.
Là người phục Clausewitz, không lẽ Lénine lại không hiểu rõ những bài học của
ông ta, mà lại chủ trương chiến lược tấn công, nhất là tấn công ở những nước xa
xôi ?
Nhưng cũng vì
chủ trương chiến lược tấn công tư bản một cách gián tiếp từ những nước thuộc
địa, nên Lénine không những mở trường đại học Đông phương, mà còn cho người đi
gặp những nhà tranh đấu cho độc lập của những nước thuộc địa. Chính vì vậy mà
người của Lénine đã gặp cụ Phan ở Tàu và Hồ chí Minh ở Pháp vào những năm đầu
thập niên 20.Theo như một số sử gia, cụ Phan được người của Đệ Tam trao cho nội
qui của Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản, cụ không biết tiếng Nga, nhưng có người đã dịch
ra cho cụ. Cụ nhìn thấy rõ là nếu đi theo Đệ Tam, thì có nghĩa là từ bỏ chủ
quyền quốc gia, vì nội qui của tổ chức này ghi rõ : tổ chức nào đi theo thì phải
tuyệt đối trung thành với ban Lãnh đạo của Đệ Tam. Thêm vào đó cụ đã thấy trước
sự sai lầm, nguy hiểm của chủ nghĩa duy vật ; khi cụ nói : « Tôi chẳng duy vật,
tôi chẳng duy tâm, tôi chỉ duy dân. « Chính vì vậy mà cụ từ chối khéo với
người của Đệ Tam.
Hồ chí Minh
không có cái sáng suốt đó, đã nhắm mắt theo và đã được tổ chức này huấn luyện
để chờ thời cơ cướp chính quyền. Thời cơ đó đã đến là sau Đệ Nhị Thế Chiến. Họ
Hồ đã cướp được chính quyền và không ngần ngại đưa nước ta vào trong gông cùm đỏ
của Đệ Tam quốc tế ; biến nước ta thành bãi chiến trường của cuộc tranh hùng tư
bản cộng sản, dân Việt thành nạn nhân ; mà hậu quả còn kéo dài cho tới ngày hôm
nay. Việt nam chúng ta có câu châm ngôn : « Một người thầy thuốc lầm thì giết
một người ; một người thầy giáo lầm thì giết một thế hệ ; một người lãnh đạo lầm
thì giết không biết bao thế hệ. » Quả thật là như vậy.
Tưởng giới
Thạch ( 1886-1975) : Thống tướng, nhà quốc khách của Tàu. Năm 1923, Tôn dật Tiên
ký Hiệp ước Thân thiện với Lénine. Họ Tôn gửi Tưởng giới Thạch qua Liên Sô để
học. Theo nguyên tắc, ông phải ở đó lâu ; nhưng ông về sớm. Người ta hỏi, thì
ông trả lời : « Tôi không có gì để học ở bên đó. » Sau đó ông tiếp : « Một con
người không có xương sống thì suốt đời chỉ nằm với bò ; không sao đứng dậy được.
Xương sống của một xã hội là giai tầng trí thức và trung lưu. Cộng sản chủ
trương đánh chết 2 giai tầng này, nên xã hội cộng sản không thể nào đứng dậy,
phát triển được. » Từ năm 1923 tới nay, ngẫm lời nói trên, chúng ta thấy không
sai.
Hậu quả của
chính sách công bằng theo kiểu cào bằng từ trên xuống dưới, kiểu « Trí phú hào,
đào tận gốc, trốc tận ngọn « khẩu hiệu của cộng sản Việt Nam khi nổi dậy ở Nghệ
An, Hà tĩnh năm 1930, chính là đưa đến phá hoại và bất công.
I I I ) Quan
niệm công bằng là xây dựng từ dưới lên trên ; và xây dựng ở giới trẻ, qua một
nền giáo dục tốt.
Đây là chủ
trương của những người Cộng hòa trong cuộc Cách mạng Pháp 1789, của Condorcet và
của Jefferson.
Thật vậy, những
người chủ trương chế độ Cộng hoà trong cuộc Cách mạng Pháp, sau khi bàn bạc,
định nghĩa và định giá trị cho ba chữ Tự do, Công bằng và Bác ái ( Liberté,
Egalité et Fraternité ) , châm ngôn của Cộng hòa Pháp và hiện vẫn còn được dùng
ngày hôm nay, họ đã đi đến kết luận là phải đặt Tự do lên trên Công bằng và Bác
ái ; vì họ đã ý thức được rằng nếu không có tự do để con người phát triển, để xã
hội dân sự lớn mạnh, nếu đặt công bằng lên trên, thì chỉ là cào bằng từ trên
xuống dưới, lấy mức thấp của xã hội, của con người làm tiêu chuẩn ; xã hội đó
không thể tiến bộ được, chỉ là một xã hội thấp kém và nghèo đói ngang nhau.
Condorcet :
(1743-1794 ), triết gia, nhà toán học và chính trị gia, là bạn của Turgot,
Voltaire, d’Alembert và Jefferson. Ông thuộc dòng giõi quí tộc, hầu tước, tên
thật là Marie Jean Antoine de Caritat, trở thành nhà tóan học năm 25 tuổi, năm
32 tuổi ông được bầu làm thư ký vĩnh viễn của hàn lâm viện Khoa học Pháp. Ông
đam mê tìm hiểu về công bằng, chân lý và giáo dục. Ông chống án tử hình, chế độ
nô lệ và đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ.
Khi Cách mạng
Pháp bùng nổ, ông theo Cách mạng. Trong Quốc hội Lập hiến, ông chủ trương thành
lập nền cộng hòa. Trong Quốc hội Lập Pháp, ông đề nghị chương trình cải tổ giáo
dục nổi tiếng sau này. Vào thời Hòa hợp ( Convention), ông đề nghị một dự thảo
hiến pháp dân chủ chưa từng thấy lúc bấy giờ. Vào thời Khủng bố ( Terreur ), ông
bị bỏ tù và bị đưa ra máy chém ; nhưng ông đã uống thuốc độc tự vẫn trước đó.
Chính trong tù, ông viết quyển Lược đồ những tiến bộ của trí tuệ con người (
Esquisse d’un tableau de progrès de l’esprit humain ). Ông tin tưởng ở tiến bộ
không ngừng của khoa học. Ông tin rằng sự tiến bộ về trí thức và đạo đức của
nhân loại chỉ có thể có được nhờ một nền giáo dục tốt. Nền giáo dục tốt theo
ông :
1) Một nền giáo dục hướng thượng,
hướng thực, hướng thiện, lấy sự thật và điều thiện làm tiêu chuẩn ;
2) Một nền giáo dục nhân bản, lấy
con người làm gốc ;
3) Một nền giáo dục khoa học tiến
bộ
4) Một nền giáo dục đại chúng, phổ
thông và cưỡng bách, có nghĩa là bất cứ trẻ em nào đến tuổi thành niên đều được
đi học, không phân biệt sang giàu, nghèo hèn, đi học ít nhất cho tới bậc phổ
thông ( trung học). Chính quyền bắt buộc phải thi hành trách nhiệm này.
Ông chủ trương công bằng về quyền ( Egalité des droits). Một thí dụ cho
dễ hiểu, đó là ai cũng có quyền tự do ngôn luận, phát biểu ý kiến của mình.
Nhưng mỗi người một ý kiến khác nhau, hay dở khác nhau ; chứ công bằng không có
nghĩa là ai cũng phát biểu cùng một ý kiến, đây là công bằng của nghĩa cào bằng,
chỉ làm cho xã hội trở nên nghèo nàn về tinh thần cũng như vật chất.
Condorcet muốn thực hiện một xã hội công bằng. Nhưng theo ý ông, xã
hội này chỉ thực hiện được từng bước một từ dưới lên trên, qua sự xây dựng giới
trẻ và qua một nền giáo dục tốt như vừa đề cập ở trên.. Chính vì vậy mà ông đề
nghị đạo luật cưỡng bách giáo dục, bắt buộc chính phủ phải làm thế nào để bất cứ
trẻ em tới tuổi vị thành niên, không phân biệt giầu nghèo, chủng tộc, đều được
đi học cho tới bậc phổ thông.Chương trình giáo dục phổ thông đại chúng và cưỡng
bách được áp dụng ở tất cả những nước tự do, dân chủ, tiến bộ là do ý kiến của
Condorcet.
Người áp dụng đầu tiên những nguyên tắc giáo dục này, chính là Thomas
Jefferson, bạn của ông.
Thomas Jefferson ( 1743-1826) : nhà văn chính trị, quốc khách, tổng
thống thứ 3 của Hoa Kỳ. Không những là tác giả của bản Tuyên Ngôn Độc lập Hoa
Kỳ, ông còn là một trong những người chính sáng lập ra nền Cộng Hòa và nền giáo
dục Hoa kỳ.
Cuộc Cách mạng Hoa Kỳ đã mang 3 ý nghĩa chính : 1) Đó là cuộc cách
mạng độc lập cứu quốc ; vì nó giúp dân tộc Hoa kỳ thoát khỏi ách đô hộ của người
Anh ; 2) Đó là một cuộc cách mạng dân chủ kiến quốc ; vì nó đã tạo dựng lên được
một thể chế chính trị dân chủ, giúp dân tộc Hoa kỳ, dù đến từ nhiều nơi, mang
nhiều chủng tộc khác nhau, nhưng vẫn có cơ hội để phát triển, tiến thân. Dân chủ
là mảnh đất mầu mở cho con người phát triển ; 3) Đó là một cách mạng giáo dục
kiến quốc. Một trong những người đặt nền tảng giáo dục tốt cho Hoa kỳ, đó là
Jefferson. Ông đã áp dụng những nguyên tắc giáo dục của bạn mình là ông
Condorcet. Ông là thống đốc tiểu bang Virginie. Trong quyển sách Những Quan sát
về tiểu bang Virginie, xuất bản năm 1784, ông chủ trương một chế độ tự do, dân
chủ nhân bản. Ông cũng như bạn mình quan niệm công bằng là phải xây dựng từ dưới
lên trên, với giới trẻ và qua một nền giáo dục tốt.
Tháng 6/1789, ông đang công tác ở Paris, với ông Adams, tổng thống
thứ 2, và Franklin, bác học, một trong những tác giả chính của bản Hiến pháp Hoa
kỳ. Vào lúc này là lúc đang diển ra Cách mạng Pháp. Ông đã đứng làm trung gian
giữa lãnh đạo của giai tầng Thứ dân ( Tiers Etat) và nhà Vua Pháp, đề nghị một
sự hòa giải giữa 2 bên ; nhưng không thành. Ông chủ trương bãi bỏ chế độ nô lệ.
Ông còn là một nhà kiến trúc. Đại học Virginie là do ông vẽ kiểu.
Quan niệm công bằng là cào bằng từ trên xuống dưới, lịch sử nhân lọai
cận đại, nhất là lịch sử các nước cộng sản, đã chứng minh quan niệm này hòan
tòan sai. Nó đồng nghĩa với phá họai và bất công bằng. Thật vậy, đòi hỏi lương
một người bác sĩ đã bỏ bao công lao học hỏi, ngang bằng với lương một người y
tá ; bề ngoài thì có vẻ công bằng ; nhưng thực chất ở trong là bất công.. Chúng
ta không chủ trương bất công ; nhưng con người sinh ra là đã khác biệt, người
này cao hơn người kia, lanh lẹ, thông minh hơn người khác. Đánh đồng tất cả, bắt
người nào cũng giống người nào, không những không công bằng, mà còn làm cho xã
hội trở nên què quặt và nghèo nàn. Quan niệm : « Khác biệt trong phong phú,
tiến bộ . » , đó chính là quan niệm phát triển tự nhiên của con người và xã hội.
Và đó mới chính là công bằng đích thực ; vì công bằng không có nghĩa là cào bằng
từ trên xuống dưới ; mà có nghĩa là xây dựng từ dưới lên trên.
Paris ngày 05/12/2008
Chu chi Nam(1) Xin coi thêm Đâu là cách mạng Việt Nam, trên
http://perso.orange.fr/chuchinam/