J.B Nguyễn Hữu Vinh
Vậy là nạn nhân vụ Thái Hà đã được đoàn tụ gia đình nhưng bản án sơ
thẩm, dù nặng hay nhẹ, không được tâm phục, khẩu phục của người bị nạn,
của giáo dân nói riêng và nhân dân nói chung, thì còn nhiều vấn đề phải
nói đến. Những diễn biến thực tế cho thấy đã có một phiên toà ngược.
Vụ án bất minh trong chuỗi việc bất minh – nguyên nhân
Theo dõi toàn bộ vụ việc Thái Hà mấy tháng nay, người ta thấy rất rõ,
vụ án này là một vụ bất minh trong hàng loạt vụ việc bất minh đối với
Giáo xứ Thái Hà.
Bất minh ở chỗ, quá trình đòi lại đất đai,
tài sản của mình bị chiếm đoạt là việc hết sức bình thường trong xã
hội, nhất là ở Việt Nam, khi mà đất đai là vấn đề gây nhức nhối nhất
của quá trình khiếu kiện nở rộ khắp nơi. Ngoài những bất cập về luật
pháp, hệ thống các cơ quan công quyền và công chức tham nhũng đã tạo
nên nạn này. Những vụ việc đó thường phải được giải quyết ở toà án dân
sự.
Ở Thái Hà, Giáo xứ đòi lại tài sản của mình bị chiếm
đoạt bất hợp pháp (xét theo pháp luật Việt Nam đã ban hành) đã mười hai
năm không có sự hồi âm. Đến khi hồi âm lại bằng cách làm coi thường
nhân dân, coi thường một tổ chức tôn giáo. Khi giải quyết không dựa
trên các cơ sở pháp luật, lại bằng cách áp đặt cho những nạn nhân những
điều không thể chấp nhận được bằng những chứng cứ không có giá trị pháp
lý.
Ở đây, còn một điều quan trọng là nạn phân biệt tôn
giáo, đối xử với tôn giáo bằng một lăng kính kỳ thị theo một thói quen
cổ truyền mà những nhà nước độc tài cộng sản thường có.
Vì
vậy, người ta không lạ khi với vụ việc ở Thái Hà và Toà Khâm sứ, nhà
nước đã dành cho một sự “quan tâm và cách giải quyết đặc biệt”.
Sự “quan tâm đặc biệt” đó đã tạo nên chuỗi việc làm bất minh khi giải
quyết vụ việc này. Sự bất minh càng ngày làm cho tình hình càng thêm
rối và khó giải quyết hậu quả. Liên tục những chuỗi việc làm của chính
quyền các cấp đã phạm những sai lầm nghiêm trọng, sai lầm sau dẫm lên
sai lầm trước và cứ thế thành hệ thống.
Tưởng cũng cần nhắc lại vài điều về nguồn gốc lịch sử những sự việc đó do đâu.
Trong những năm sắt máu nhất của đỉnh cao chủ nghĩa cộng sản trên thế
giới thời chiến tranh lạnh, Việt Nam như một khu vực bí hiểm. Bí hiểm
bởi cuộc chiến tranh “chống Mỹ, cứu nước” đã bị bức màn sắt trùm lên
trên mọi lĩnh vực của đất nước và có nhiều thực tế mà cả thế giới không
thể hiểu nổi.
Thời kỳ đó, đất nước được đặt trong một sự
kiểm soát gắt gao và khốc liệt. Khi đó nhà nước muốn bắt ai thì bắt,
muốn bỏ tù ai thì cứ việc tuỳ thích. Biết bao con người đã đi tù hàng
chục năm trời không án, không lệnh… mà đố có ai dám nửa lời kêu van. Họ
như những con mồi đặt trước bàn nhậu của các quan chức nhà nước lắm
tiền bây giờ, con nào muốn xẻo thịt, con nào muốn cắt tai, con nào chọc
tiết… tà tuỳ ý thích cán bộ nhà nước và của đảng trong cơn hứng chí.
Hầu như mỗi người dân là một công an, họ theo dõi nhau, tố cáo nhau và
triệt tiêu nhau nhiều khi chỉ vì để thể hiện niềm tin yêu vào “lý tưởng
cộng sản”.
Trong bối cảnh đó, những người công giáo là nạn
nhân và là đối tượng chắc chỉ sau Mỹ và chính quyền Sài Gòn, cần cảnh
giác và phân biệt.
Việc đối xử với với những tài sản và tính
mạng người công giáo, cũng tuỳ thích cán bộ nhà nước có thể lấy bất cứ
thứ gì, từ nhà đất, trường học, dòng tu, bệnh viện mà không cần bất cứ
một lý do pháp luật nào. Ai dám chống đối nếu không muốn mọt gông trong
tù hay biến mất không lý do?
Biết bao nhiêu tác phẩm xuyên tạc về công giáo, về các chức sắc tôn
giáo đã được nhà nước dùng ngân sách in ấn, phát hành và thậm chí đưa
vào sách giáo khoa để đầu độc những tâm hồn thơ trẻ thói kỳ thị tôn
giáo, nhất là công giáo. Việc học hành, công tác, việc cơ cấu cán bộ,
đảng viên, vào lực lượng vũ trang… được phân biệt triệt để.
Một lớp “con người mới xã hội chủ nghĩa” đã được hình thành trong bối
cảnh đó và đã trưởng thành trong giai đoạn này. Ở họ, mang đầy đủ những
nhận thức sai lầm về tôn giáo, mang đầy đủ những định kiến vô lý về
công giáo, nhằm chỉ độc tôn món vô thần “Mác-Lênin”.
Với não
trạng đó, lớp cán bộ hôm nay đã có quá nhiều điều đi ngược lại quy luật
của sự phát triển là đoàn kết, hoà bình và hợp tác. Cụ thể nhất là cách
xử sự với hai vụ Toà Khâm sứ và Giáo xứ Thái Hà hôm nay.
Vụ
việc Thái Hà và Toà Khâm sứ, nếu không phải là của những người công
giáo mà là của một quan chức nào đó, chắc không phải chờ đợi tới 12 năm
khiếu nại mà không có hồi âm. Khi những giáo dân hết kiên nhẫn đã phải
dùng đến biện pháp cuối cùng là cầu nguyện ôn hoà, vẫn là cách giải
quyết cửa quyền: Tao là bố mày, làm hay không, cho hay không là quyền
tao. Những đoàn thanh tra, những chứng cứ quyết định… vẫn chỉ là trò
con trẻ, họ không nghĩ rằng người dân bây giờ đã khôn lớn, không như
đám dân đen đứng lên theo đảng làm cách mạng năm xưa.
Nhưng
trước tinh thần kiên vững của những giáo dân hôm nay, khi họ vượt qua
nỗi sợ hãi cố hữu, vì chính nhà nước đã hô hào một nhà nước pháp quyền.
Họ quyết thực hiện nhà nước pháp quyền thật sự chứ không như mớ bánh vẽ
họ đã được chén bao chục năm nay. Họ đã yêu cầu nhà nước thực hiện đúng
khẩu hiệu “Sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật”. Những hành động
của giáo dân đã đi theo đúng đường lối xây dựng nhà nước dân chủ, pháp
quyền mà nhà nước đã tuyên bố trước bàn dân thiên hạ. Người dân đòi
được quyền cất tiếng nói của mình, được sử dụng những quyền mà nhà nước
đã thâu tóm vào tay mình để thỉnh thoảng nhỏ giọt lấy ơn huệ theo cơ
chế XIN – CHO.
Đến đây, nhà nước lâm vào thế bí.
Lẽ ra, trước những yêu cầu chính đáng của người dân, nhà cầm quyền cần
biết phải làm gì, nếu họ nghĩ đến sự tồn vong của nhà nước, của chế độ
lâu dài, thì phải nghĩ đến lòng dân. Nhưng ngược lại điều đó, họ đã
hành động và càng hành động càng thể hiện những não trạng lạc hậu và ấu
trĩ: lòng dân không bằng nòng súng.
Một hệ thống các ban
ngành từ cấp địa phương đến trung ương, từ mặt trận, đoàn thể, ban tôn
giáo, Uỷ ban Đoàn kết Công giáo… do nhà nước dựng lên vô cùng tốn kém
được nuôi bằng tiền dân. Nhưng tất cả đã không có một tác dụng nào để
hiểu “đối tượng” của mình. Họ đã không hề làm cho nhà nước hiểu được
thế nào là người công giáo.
Thật ra, họ chỉ là những con
rối, đám bù nhìn dưới sự giật dây lãnh đạo “tuyệt đối” của đảng cộng
sản trong một nhà nước “đảng trị”.
Họ không hiểu được rằng, những cành thiên tuế người công giáo cầm trên
tay khi ra pháp trường với ánh mắt hồ hởi, là những lời nguyện thiết
tha cho họ được ơn phúc tử đạo noi gương các Thánh tử đạo Việt Nam.
Những người công giáo đó sẵn sàng xả thân, hi sinh mạng sống cho công
lý. Chính vì vậy mà đã xảy ra những điều hết sức hài hước
khi họ hành xử và phát ngôn về công giáo trong thời gian qua dẫn đến
kết quả ngày hôm nay. Đoàn người diễu hành trên phố đi ra nơi xử án Một phiên toà xử ngược – những bản cáo trạng không đóng dấu quốc huy Vụ 8 giáo dân vừa mới kết thúc phiên sơ thẩm, nhưng từ khi khởi tố vụ án này đã có một phiên toà xử ngược trong thực tế.
Trước hết, việc truy tố giáo dân cầu nguyện, đập vỡ mấy cục gạch để vào
khu đất được họ coi là tài sản của họ mà không chịu giải quyết thấu đáo
tận gốc vấn đề đất đai tài sản này là của ai, đã làm dấy lên trong dư
luận xã hội, trong lòng dân câu hỏi: Tại sao không chịu căn cứ vào
những chứng cứ nhà nước đã đưa ra để xem xét việc sử dụng đất đai và
tài sản đã là của Dòng Chúa Cứu thế - Giáo xứ Thái Hà? Phải
chăng nếu đem ra xem xét, thì chính quyền chỉ có nước… thua. Tại sao có
những giáo dân can đảm đến thế? khi nhân dân thừa hiểu sự tàn bạo của
cái gọi là “chuyên chính vô sản như” thế nào qua mấy chục năm sống
chung. Điều đó đã hình thành nên một bản cáo trạng đối với
việc xử sự với tài sản, quyền tư hữu và việc thi hành luật pháp ở Việt
Nam. Đó là nạn quan chức nhà nước thích sao xử vậy, không cần luật pháp
và bỏ qua nguyện vọng của người dân. Những vụ bắt bớ khẩn
cấp mấy giáo dân không chậm trễ bằng cả hệ thống quân lực hùng hậu, đã
nói lên sự nghiêm trọng của vấn đề và thu hút dư luận. Việc ra và sửa
chữa cáo trạng, lấy chứng cớ, thu hồi vội vã khu đất… nhất là việc dùng
nhóm côn đồ hung hãn đến quấy phá nơi tu hành ban đêm, hô hào đòi giết
người như cơn cuồng nộ của quỷ sa tăng đã nói lên tiếng nói tự bản thân
họ: Họ đang không tự tin và sợ hãi. Tiếp theo là việc làm
bằng được vườn hoa trên khu đất với cách làm được quan chức Hà Nội giải
thích là “đặc cách” càng khẳng định điều đó là sự thật. Câu hỏi: “Tại
sao hàng loạt các dự án thiết thực đến quốc kế, dân sinh, cái nào cũng
hết sức cần thiết như nước sạch, vệ sinh an toàn thực phẩm, nạn ngập
lụt đã đe doạ và cướp đi hàng chục tính mạng người dân đã không được
“đặc cách” để phát huy hiệu quả? Phải chăng chỉ có những việc liên quan
đến người công giáo mới nhận được sự ưu ái này? Đây là bản
cáo trạng về sự phân biệt đối xử, sự tù mù về chính sách và cách đối xử
bất công với một cộng đồng tôn giáo chiếm 1/10 dân số. Từ
thời Lê Khả Phiêu đảng đã hò hét, hô hào chống tham nhũng để bảo vệ
đảng, bảo vệ đất nước. Vậy là tham nhũng từ “vấn nạn” đã trở thành
“quốc nạn”. Các quan chức đứng đầu nhà nước không ngại lớn tiếng kêu
gọi, hô hào… bằng những từ ngữ đao to búa lớn. Nhưng tham
nhũng đâu chỉ có hô là xong. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã long trọng
cam kết rằng nếu không đẩy lùi được tham nhũng, sẽ từ chức… Nhưng đã
quá dài thời gian để ông kiểm tra lại kết quả chống tham nhũng của
mình. Điển hình là vụ PMU 18, những quan chức bị bắt với vô số dữ liệu
về tài sản bất minh, về những hiện tượng ăn chơi truỵ lạc, trác táng…
đã được nêu lên, tưởng rằng chuyến này tham nhũng sẽ thi nhau vào khám.
Nhưng kết quả xử lý đã ngược lại, các nhà báo, những người quyết liệt
chống tham nhũng thì vào tù, những kẻ bị bắt đã thành vô tội? Mới đây
nhất, vụ PCI Nhật Bản đã đến mức cắt nguồn viện trợ ODA thì Việt Nam
mới khởi tố vụ án? Trong khi ở Nhật, toà đã xét xử rõ ràng?
Khi đưa giáo dân Thái Hà ra toà xét xử gọi là “công khai” nhưng đã thực
hiện tại tầng 4 của UBND phường. Phòng xử chỉ có được mấy bị cáo và vài
người thân, ngoài ra chỉ là các cán bộ và công an. Các nhà báo và người
nước ngoài được ngồi dự toà qua màn hình ở tầng 3. Quần chúng nhân dân
hàng mấy ngàn người quan tâm đến tận nơi đã được sự đón tiếp của một
lực lượng hùng hậu cảnh sát các loại trang bị tận răng. Quan chức nhà
nước và chó nghiệp vụ ẩn đằng sau với xe chống bạo động, vòi rồng… và
sự làm việc tận lực của cán bộ từ thành phố đến cấp phường, tổ dân phố
với những thông báo, ngăn cấm dân chúng không được tập trung đông người
hoặc đến nơi đó. Ngoài toà không một loa phóng thanh, không một màn
hình để người dân chứng kiến cảnh “các bị cáo cúi đầu nhận tội” như báo
Hà Nội mới và truyền hình đã tuyên bố như thế nào? Ở đó,
người dân chỉ thấy các “bị cáo” hùng dũng hiên ngang tự tin bước vào
phiên toà đầu ngẩng cao và dang rộng hai cánh tay chiến thắng lên trời
khi bước ra khỏi nơi xét xử. Ở đó, người ta chỉ thấy một hình ảnh trong
phiên toà, giữa hàng loạt cảnh sát vây quanh với những gương mặt căng
thẳng, bối rối, là những “bị cáo” – nạn nhân với trang phục đẹp, vẻ mặt
bình thản, ngời sáng đức tin. Thậm chí, tại vụ việc Thái Hà
và Toà Khâm sứ, chính giáo dân đã có công đầu trong việc đập tan một âm
mưu chia chác, biến đất đai tài sản này thành các miếng mồi ngon cho
các cá nhân. Đó là công lao của họ trong việc nghe theo lời đảng và nhà
nước chống tham nhũng. Đây là một bản cáo trạng về những mờ
ám, uẩn khúc và khoảng cách giữa một lời nói và việc làm của một chính
quyền đã hô hào đến nhàm chán câu khẩu hiệu “thực thi pháp luật, công
khai, dân chủ và lời nói đi đôi với việc làm” đặc biệt là trong việc
chống nạn tham nhũng hiện nay. Bản cáo trạng này cũng lên
án, vạch rõ đích đáng thói lộng ngôn, bịa đặt của báo chí nhà nước về
ngay cả những sự thật hiển nhiên ít có cơ hội che giấu nhằm đánh lừa cả
cộng đồng dân tộc. Ngay khi vừa kết thúc phiên toà, đoàn người với hàng
ngàn cành thiên tuế trên tay vừa bước ra đến đường Hoàng Cầu, những
người dân bên kia ngã tư đã nghe loa phường đọc tràng giang đại hải bài
viết chi tiết về phiên toà với những nội dung án cụ thể và lại “các bị
cáo đã cúi đầu nhận tội”. Thật là lố bịch và vô liêm sỉ một cách trắng
trợn. Họ tưởng rằng chính sách ngu dân của họ đã thành công nên mọi
người dân cứ nhắm mắt và nghe theo? Tại phiên toà, toàn bộ
bản “cáo trạng” của Viện Kiểm sát thực chất chỉ là lời bào chữa cho
những hành động mờ ám, sự bất lương đối với những việc làm chính đáng
của người dân như cầu nguyện, đòi quyền lợi của mình bị xâm hại. Bản
“cáo trạng” nói trên, cũng đã làm một việc bất nhân và hèn hạ nữa là
tranh thủ để công kích và kết tội Đức TGM Ngô Quang Kiệt, một con người
đáng kính, dù việc đó chẳng liên quan gì đến việc kết tội 8 nạn nhân
này. Nhưng, bản bào chữa của luật sư thật sự mới là một bản
cáo trạng đanh thép và dũng cảm. Trong đó, đã nêu rõ nguồn gốc, đường
hướng luật pháp cần giải quyết, các căn cứ, căn nguyên mọi sự việc dẫn
đến hành động cố tình kết tội để trả thù các nạn nhân của chính quyền ở
đây. Tất cả các vấn đề đã được dùng văn bản có hiệu lực của chính nhà
nước để giải thích và kết luận họ vô tội. Những căn cứ về nguồn gốc đất
đai, những căn cứ pháp lý liên quan đã như đưa toà chạm vào lửa, và đã
bị nhiều lần cắt ngang. Vì lý do gì vậy? trong khi quyền sở hữu đất đai là cơ sở dẫn đến sự việc ngày hôm nay.
Trước toà, những nạn nhân hùng dũng, hiên ngang bước tới vành móng
ngựa, trả lời và vặn hỏi những câu làm cho chánh án và các thẩm phán
phải tái mặt và tịnh khẩu. Họ sẵn sàng nhận việc họ đập bức
tường, nhưng không cho rằng đó là có tội. Nói cách khác, họ đã khẳng
định quyền sở hữu về đất đai, tài sản đó vẫn là của họ mà toà không có
cách nào giải thích. Họ khẳng định việc làm của họ là đúng đắn và cần
thiết không chỉ cho họ và giáo dân mà cần thiết cho cả xã hội đang khát
khao công lý và sự thật. Ngoài phiên toà, hàng ngàn người
đứng vẫy tay với những tiếng hô vang vọng cả đất trời “Vô tội, vô tội”
dưới nắng chiều rực rỡ bên cạnh những câu “chúng tôi muốn đi tù thay
cho anh chị em”, “chúng tôi luôn bên cạnh anh chị em” đã làm ngạc nhiên
không biết bao nhiêu cán bộ công quyền và cảnh sát có mặt và những
người ngoài công giáo tò mò tìm hiểu sự thật. Đứng trước
biển người cầm cành thiên tuế chờ đợi, đọc kinh và hô vang, một cán bộ
công an Hà Nội rất ngạc nhiên và nói với tôi: “Sao bà con đứng đây làm
gì cho nắng nôi khổ sở, ở nhà thì vẫn biết kết quả cơ mà”? Tôi đành
phải giải thích “Thế mới là CON NGƯỜI chú ạ, con người biết vất vả hi
sinh và nguy hiểm nhưng vẫn đến vì họ mong muốn sự thật và công lý, vì
đạo đức con người đòi buộc họ phải lên tiếng. Họ đói vẫn biết từ chối
những miếng ăn ngon vì nó chứa đựng sự nhục nhằn, họ nghèo đói nhưng
không làm nô lệ cho đồng tiền. Vì thế con người mới khác với con vật,
con vật thì cứ chủ cho ăn ngon thì dù chửi mắng vẫn ăn, ăn rồi bảo cắn
càn là cứ cắn thôi”. Sau phiên toà hàng ngàn con người đã
diễu hành trên đường về nhà thờ với khẩu hiệu trên áo và cành thiên tuế
trên tay, hình Đức Mẹ công lý trên ngực hô vang “vô tội, vô tội, công
lý, sự thật”. Cuộc diễu hành đã làm dòng người đông nghịt
giờ tan tầm phải trầm trồ tìm hiểu. Những người biết giáo dân đi dự toà
về đều hết sức ngạc nhiên và thú vị. Cũng ngoài nơi xét xử, rất nhiều
người vì tò mò và chưa hiểu được vấn đề đã tìm đến nơi để hiểu được sự
thật, tôi đã thấy sự thất vọng trên gương mặt họ khi hiểu được thế nào
là truyền thông nhà nước. Quả là một phiên toà lạ lùng và
nhiều kịch tính. Trong lịch sử đất nước từ khi những người cộng sản lên
cầm quyền đến nay, có lẽ chưa có cuộc diễu hành nào không được đảng và
nhà nước ưa lại oai hùng và đẹp đẽ như vậy. Đó là bản cáo
trạng, bản cáo trạng của lòng dân, niềm tin của nhân dân, của những
người thấp cổ bé họng đối với hệ thống pháp lý của nhà nước. Và một
thực tế hiện nay là sự sợ hãi vốn có của họ đã không cánh mà bay, dù nó
được nuôi dưỡng đã mấy chục năm nay dưới chế độ cộng sản.
Bản cáo trạng nói trên, không đóng dấu quốc huy, nhưng đóng dấu son và
in đậm trong lòng dân. Bản cáo trạng nói trên đã trở thành tiếng nói
của công lý và sự thật. Các “bị cáo” nạn nhân trong phiên toà đã trở
thành những anh hùng làm chứng cho công lý, sự thật và hoà bình.
Những kẻ dựng lên vụ án này đã là những bị cáo bị lên án nặng nề nhất
trong một phiên toà xử ngược mà án đã tuyên: phiên toà lương tâm và
lòng dân. Ở phiên toà đó, những kẻ gây nên tội ác đã phải
chịu bản án đích đáng và sẽ phải chấp nhận những hình phạt nặng nề, dù
vô hình hay thực thể. Phiên toà Thái Hà là một tấm gương
soi, mà trong đó những chỗ sồi sụt, những loang lổ và hầm hố trong
chuỗi hệ thống công quyền đã lộ ra. Có thể sẽ còn những
phiên toà khác, còn những bản án khác. Nhưng, với người tín hữu Việt
Nam, công lý, sự thật và hoà bình khi còn là ước mơ, thì vẫn là ngọn
đèn soi, là mục đích cho họ bước tới bất chấp mọi trở ngại trên bước
đường khó khăn này. Nhân dân cả nước và nhân loại tiến bộ,
những người yêu chuộng hoà bình, công lý sẽ nâng đỡ họ. Đúng như lời
Chúa đã dạy: “Sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8,32). Xin
cầu nguyện cho nạn nhân của cả hai phiên toà được bình an, và những bị
cáo trong phiên toà xử ngược sẽ biết ăn năn hối cải, sớm trở về nẻo
chính đường ngay. Lối đi đó thật đơn giản nhưng không dễ dàng cho những kẻ đã bán rẻ lương tâm cuộc đời cho sự dối trá và lừa lọc.Hà Nội, ngày 10/12/2008J.B Nguyễn Hữu VinhNguồn: Nguyễn Hữu Vinh 's Blog
|