Tác giả: Mường Giang
Năm 1895 nhà Thanh bị Nhựt đánh bại, phải ký hòa ước Mã Quan
(Simonoseki) nhường cho nước này các quần đảo Ðài Loan, Bành Hồ. Năm
1901 Nhựt lại chiếm Hải Cảng Lử Thuận (Port Arthur) nhưng bị Nga rũ các
nước Mỹ, Anh, Pháp, Ðức.. bắt trả bán đảo Liêu Ðông cho Tàu. Sự thù hận
giữa Nga-Nhựt bắt đầu từ đó và bùng nổ , khi Hạm đội của Nga Hoàng
Nicolas II,bất thần chiếm Cao Ly, Mãn Châu và Hải cảng Lữ Thuận. Giữa
lúc hai nước còn đang điều đình, Nhật bắn chìm 3 chiến hạm Nga trong
Hạm đội.
Theo sử liệu còn lưu trữ cho biết lúc đó có chiến hạm Diana, lợi
dụng đêm tối nên đã thoát được trận địa tại Hoàng Hải và chạy vào Giang
cảng Sài Gòn ngày 25-8-1904, xin thực dân Pháp cho trú ẩn chờ lệnh của
Mạc Tư Khoa. Ðể cứu viện cho Hạm Ðội Nga tại Lữ Thuận sắp bị Hải quân
Nhật tiêu diệt, Nga Hoàng đã ra lệnh cho Hạm Ðội Hắc Hải, do Ðô Ðốc
Rodjestvensky chỉ huy, đi vòng Ấn Ðộ Dướng, tới tiếp viện. Vì muốn giữ
trung lập, Paris đã chỉ thị cho Toàn quyền Ðồng Dượng ra lệnh cho Ðô
Ðốc Pháp là De Jonquières, từ Sài Gòn ra tận Vũng Tàu, cấm Hạm Ðội Nga
không được ghé vào lãnh thổ VN. Nhưng lúc đó, Hạm Ðội Nga với 52 tàu
chiến đủ loại, không ghé cảng Ô Cấp, mà lại vào thẳng Vinh Cam Ranh
ngày 13-4-1905 và bỏ neo tại đó.
Sự kiện trên làm cho thực dân Pháp tại Ðông Dương bối rối, vì bị
Ðại Sứ Nhật tại Paris phản kháng quyết liệt, nên ngày 8-5-1905 Thống
đốc Nam Kỳ từ Sài Gòn tới Cam Ranh, gửi tối hậu thư bắt Ðô Ðốc
Rodjestvensky, phải rút Hạm Ðội ra khỏi VN. Nhưng dù bị áp lực nhiều
lần, mãi tới ngày 14-5-1905, khi Tiểu Hạm Ðội Nebogatoff với các chiến
hạm Apraxine, Ouchakoff, Vladimir Monomach.. gia nhập đoàn, chừng đó Ðệ
Nhị Hạm Ðội Nga tại Hắc Hải, mới chiu rời Vịnh Cam Ranh, sau khi trốn ở
đây hơn một tháng.
Thời điểm đó, Hạm Ðội Nga đã lừng danh khắp thế giới nhưng vào
ngày 27-5-1905 lại bị Hạm Ðội Nhật của Ðô Ðốc Heihatiro Togo, tiêu diệt
gần hết tại Eo biển Tsoushima (Ðối Mã) trong Nhật Hải. Các Ðô Ðốc
Rodjestvensky, Nebogatoff.. kéo cờ trắng đầu hàng và bị bắt làm tù
binh. Chỉ có vài chiến hạm còn lại bị hư hai nặng nhưng chạy trốn được
tới Vịnh Subic, Phi Luật Tân. Nga thua trận phải ký Hòa ước Portsmouth
kết thúc chiến tranh, nhường cho Nhật bảo hộ Cao Ly, Liêu Ðông, hải
cảng Lữ Thuận, phía nam đảo Sakhaline và đường xe lửa Mãn Châu.
QuáchTấn khi viết ‘ Xứ Trầm Hương ‘, cũng có nhắc tới việc Phan
Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, năm đó từ Quảng Nam vào
Khánh Hòa, nghe đồn Hạm đội Nga vào Cam Ranh, có tới xem nhưng không
toại nguyện, do đó đã thẳng đường vào thăm bạn là Trượng Gia Mô tại
Phan Rí, mở màn cho bi kịch ‘ Trường Dục Thanh ‘ , để Nguyễn Tất Thành
tới dạy học năm 1910, khiến cho đồng bào vùng Cồn Cỏ, và con cháu
Nguyễn Thông ở Phan Thiết, phải tán gia bại sản sau ngày 30-4-1975, vì
VC chiếm nhà đất của mọi người, để làm khu di tích và bảo tàng viện họ
Hồ.
Hai mươi năm trong chiến cuộc Ðông Dương 2 (1955-1975), Việt Cộng
nhờ có viện trợ khổng lồ của Trung Cộng, Liên Bang Sô Viết và Ðông Âu..
mới cưởng chiếm được cả nước. Nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, tình
hình cọng sản quốc tế cũng biến chuyển và phân thành lưỡng cực, chấm
dứt cơ hội để Lê Duẩn kế thừa sự nghiệp đi giây giữa hai đàn anh vĩ đại
hưởng lợi như lúc trước.
Với Liên Xô muốn có viện trợ , VC phải theo hẳn Ðiện Cẩm Linh từ
kinh tế tới quân sự, cho Hải quân Nga vào Hải Phòng, Ðà Nẳng, Cam Ranh,
Vũng Tàu để lập căn cứ, chống lại Trung Cộng lúc đó đang ngả dần thân
thiện với Hoa Kỳ. Còn Trung Cộng, qua Phó Thủ Tướng Ðặng Tiểu Bình vừa
được phục chức, muốn có viện trợ VC phải theo Trung Cộng, để chống lại
chủ nghĩa bá quyền Liên Xô.
Cuối cùng ngày 27-12-1975 tại Bắc Kinh, Lê Duẩn đã dứt khoắc từ
chối không theo Tàu nên không ký bản thông cáo chung chống Nga, vì vậy
đã bị chủ cúp hết viện trợ, kể cả gạo. Ðồng thời còn bị bắt buộc phải
trả nợ theo đúng hạn kỳ. Cũng kể từ đó, Lê Duẩn và đảng VC chạy theo
Liên Xô, công khai đối đầu chống lại Trung Cộng, gây nên cuộc ác chiến
trong họ hàng nhà Cộng, giữa ba đảng anh em Tàu-Hà Nội và Khmer Ðỏ ,
vào năm 1978-1979, làm cho quê hương VN đã điêu tàn thảm tuyệt từ năm
1930, tới nay lại tiếp tục tang tóc đổ máu để lót đường làm giàu cho
các chóp bu, đang ngự trong cung vàng điện ngọc tại Bắc Bộ Phủ.
Quyền lực phải kiếm trên đầu súng, trở thành căn bệnh trầm kha của
những lãnh tụ già nua vô học của đảng VC , nên vừa đạt tới đỉnh cao,
sau chiến thắng bất chợt tại Miền Nam vào ngày 30-4-1975, thì đã tàn
cơn mộng hẻo vào những ngày đầu năm 1977, vì nạn đói từ bắc vào nam, do
thiên tai và việc không hợp tác của đa số nông dân vựa lúa miền Sông
Tiền, Sông Hậu. Ðồng bào Miền Nam đã chống lại chính sách kinh tế tập
trung, sưu cao thuế nặng, cùng với sự quản lý ngu dốt của bọn cán bộ
miền Bắc, đám hồi kết Miền Nam, rất tham lam và độc tài.
Tất cả chiến lợi phẩm , trong số này có 16 tấn vàng của Ngân Hàng
Quốc Gia VN để lại, cùng tài sản của đồng bào bị cướp bóc, được tẩu tán
chia nhau thụ hưởng, đâu ai chịu bỏ ra để mua gạo cứu đói. Bởi vậy VC
lại đi ăn mày khắp nơi, kể cả LHQ cùng các nước anh em Thụy Ðiển, Liên
Xô, Ðông Âu, Pháp, Ấn Ðộ.. nhưng ở đâu cũng hoàn toàn thất bại, vì ai
cũng đã thấy rõ được bộ mặt thật của cọng sản, sau khi lộ nguyên hình,
khắp cả nước trong thiên đàng xã nghĩa..
Còn Trung Cộng khi tiêu diệt dược Giang Thanh và Tứ Nhân Bang, đã
chấn chỉnh nội bộ, công khai liên hệ với Hoa Kỳ, triệt để chống Liên Xô
cùng Việt Cộng, nên từ chối viện trợ, cũng như cắt đứt quan hệ ngoại
giao giữa hai nước. Ðồng thời Polpot và Khmer Ðỏ cũng theo hẳn Trung
Cộng, mở nhiều cuộc tấn công tàn sát đồng bào VN vô tội, dọc theo các
làng mạc biên giới Miên Việt. Tại Paris, cuộc hội đàm giữa VN và Hoa
Kỳ, về vấn đề nối lại bang giao, bi tan vở vì lòng tham vô đáy của VC,
chỉ đòi tiền bồi thường chiến tranh và viện trợ tái thiết.
Rốt cục Tổng Thống Jimmy Carter cũng phải quay mặt và yêu cầu Quốc
Hội cấm viện trợ và cấm vận VN. Tất cả mọi lý do trên, đã đẩy VC vào
cuối đường hầm, nên Lê Duẩn lại hết lơiợ ca tụng Mạc Tư Khoa, phát động
chiến dịch ‘ Việt-Xô hữu nghị ‘ . Nhưng muốn làm đầy tớ Nga, trước hết
VC phải gia nhập Khối Hợp tác kinh tế Ðông Âu (IBEC) và phải gửi chiến
lợi phẩm thu được của VNCH sang Ethiopie và Salvador qua hình thức trả
nợ cho Nga. Từ tháng 7-1977, nhiều nhân vật cao cấp của Ðiện Cẩm Linh ,
tới nhắm nhía các quân cảng và phi trường củ của VNCH tại Ðà Nẳng, Tân
Sơn Nhất, Cần Thơ, Nha Trang nhưng quan trọng nhất là Vịnh Cam Ranh, để
bắt đầu cuộc hợp tác quân sự mới ‘ Liên Minh chống Hoa Kỳ, Trung Cộng
và Khmer Ðỏ ‘..hay nói đúng hơn là tiếp tục cắt xẽ da thịt của Mẹ VN
cho ngoại bang, để có phương tiện chiến tranh nô lệ cả nước.
Ngày 1-11-1978, Lê Duẩn và Tổng Bí Thư Liên Xô Brezhnev, ký kết
Hiệp ước Liên Minh Quân Sự, trong đó có Ðiều 6 , cho phép Không-Hải
Quân Liên Xô, được xử dụng bất cứ quân cảng và hải cảng của VN. Rồi lúc
quân Tàu còn đang tàn sát cướp phá các tỉnh tại Thượng du Bắc Việt, thì
Thủ tướng VC Phạm Văn Ðồng lại bí mật bay tới Mạc Tư Khoa, để ký kết ‘
Cho Mướn Dài Hạn ‘ Căn Cứ Quân Sự va Hải Cảng Cam Ranh. Giao kèo bắt
đầu ngày 27-3-1979, một tiểu Hạm Ðội Nga gồm một Khu trục hạm + một
Tuần dương hạm + một Tàu dò mìn, đã chính thức đóng căn cứ tại Vịnh Cam
Ranh.. cho tới khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, mới chịu rút về nước, vì
không còn muốn thuê mướn.
Tóm lại trong lịch sử thế giới, vấn đề tranh chấp biên giới, lãnh
hải giữa các quốc gia lân cận, hầu như thời nào và ở đâu cũng có. Nhưng
tại VN từ khi đảng cọng sản đệ tam quốc tế, do Hồ Chí Minh mang về từ
Liên Xô. Vì quyền lợi riêng tư của đảng và cá nhân, cọng sãn VN liên
tiếp hứa, ký, thế chấp, sang nhượng cho ngoại bang lớn nhỏ, rất nhiều
đất đai lãnh thổ của tiền nhân để lại. Hoàng Sa, Trường Sa tới Biển
Ðông thực chất coi như đã lọt vào tay kẻ thù không đội trời chung Tàu
Ðỏ. Kế đó là Hải Phòng và nay đảng lại lăm le dâng hiến Vịnh Cam Ranh
cho Trung Cộng, qua bức màn khói ‘ hợp tác ‘ để dò tìm các giếng dầu
trong hải phận VN, tai hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa.
Trong hai mươi năm VNCH (1955-1975), các vị nguyên thủ quốc gia từ
cựu hòang Bảo Ðại, TT Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu cho tới Trần Văn
Hương bị thóa mạ đủ điều nhưng không có ai dám chụp mũ là họ đã bán
nước cho ngoại bang, dù chỉ một tất đất., kể cả 16 tấn vàng của Ngân
Hàng Quốc Gia và tiền ký bảo chứng 100 triệu đô la tại Mỹ, sau đó đều
lọt vào túi VC. Hởi ơi nhìn lại từ đầu tới cuối, VC còn tệ hơn trăm
ngàn lần, nếu đem so sánh với những Trần Thiểm Bình, Mạc Ðăng Dung, Lê
Chiêu Thống.vậy mà lúc nào cũng đỉnh cao, đào bới người khác là Việt
Gian, Nguỵ, tham nhũng bán nước và đàn áp tôn giáo, văn nghệ sĩ .. Bây
giờ ai mới thật sự là thủ phạm ?
1 - NHA TRANG : MIỀN THÙY DƯƠNG CÁT TRẮNG
Cam Ranh là một trong bốn vịnh của tỉnh Khánh Hòa, nằm về phía nam
bờ biển Trung Phần. Tỉnh này hiện có diện tích 5.197 km2 với dân số năm
2000 là 1.031.262 người, tỉnh lỵ là thành phố Nha Trang và các quận Vạn
Ninh, Ninh Hòa, Diên Khánh, Cam Ranh, Khánh Vĩnh, Khánh Sơn, giáp ranh
với các tỉnh Phú Yên (bắc), Darlac (tây), Ninh Thuận (nam) và biển Ðông
Hải.
Khánh Hòa có rất nhiều di tích lịch sử và thắng cảnh đẹp như Hải
Học Viện xây năm 1922 tại Cầu Ðá Nha Trang. Ðây là cơ sở chuyên môn duy
nhất về ngành khảo sát hải dương học tại VN từ trước tới nay, nên còn
lưu giữ phần lớn những bộ sưu tập về các sinh thực biển, hầu như đủ
loại muôn hình muốn sắc. Phía bên kia cầu Xóm Bống, thuộc xã Vĩnh Phước
rất lâu đời, có nhiều tháp Chàm, được xây dựng từ thế kỷ 7-13 sau tây
lịch (STL). Hiện chỉ còn lại 4 tháp, trong số này lớn nhất là Tháp Bà
(Po Nugar) thờ Nữ thần Po Nugar, rất được người Việt sùng bái và
ngưỡng-trọng.
Trong tỉnh còn có Hồ tắm Trí Nguyên, chu vi 160 x 130m do Trí
Nguyên xây năm 1971, gồm ba khu vực nuôi đủ cac loại cá cảnh, cá ăn
thịt và các loại cá dữ. Trên hồ có nhà nghĩ mát, phong cảnh rất đẹp.
Tại Dục Mỹ thuộc quận Ninh Hòa, có suối nước nóng ở độ 75, hiện được
khai thác du lịch và chửa bệnh bằng bùn có chứa nhiều khoáng chất.
Dọc theo quốc lộ 1 về hương nam, cách Nha Trang chừng vài cây số,
có ngôi mộ của bác sỷ Alexandre Yersin (1863-1943) nằm trên một ngọn
đồi thấp. Ông chẳng những là một trong những người đầu tiên đã tìm ra
cao nguyên Lâm Viên (Ðà Lạt), mà còn là ân nhân của dân tộc VN vì đã
tìm ra những thuốc chủng các loại bệnh dịch, khi làm việc tại Viện
Pasteur Nha Trang do chính ông thành lập. Ngoài ra ông cũng là người
đầu tiên, thành công đem giống cao su về trồng tại Khánh Hòa. Do những
gắn bó trên, nên khi mất lúc 80 tuổi, ông muốn được chôn tại VN, dù là
người Pháp gốc Thụy Sĩ.
Trước năm 1975, Khánh Hòa là một trong vai tỉnh có an ninh nhất
VNCH, vì có nhiều quân trường và cơ sở quân sự quan trọng tại đây, như
Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Biệt, đóng tại trại Chương Dương đường Lê Văn
Duyệt, Nha Trang. Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp vận cùng các cơ cấu liên hệ, Tòa Án
Quân Sự và Mặt Trận Vùng 2 Chiến Thuật, Quân Y Viện Nguyễn Huệ, Trung
Tâm Huấn Luyện Sĩ Quan Không quân và Hải quân, Trung Tâm Huấn Luyện Lực
Lượng Ðặc Biệt ở Ðông Ba Thìn (Cam Lâm), Trường Hạ Sĩ Quan Ðồng Ðế và
Huấn Khu Dục Mỹ gồm có Trường Pháo Binh, Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Ðộng
Quân và nhất là Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn, chuyên thụ huấn binh sĩ
quân dịch vùng 2 chiến thuật, cũng như các đơn vị của Sư đoàn 22 và 23
BB, kể cả DPQ + NQ .
Riêng Nha Trang xưa nay vẫn nổi tiếng khắp nước là một thành phố
du lịch, miền thùy dương cát trắng với non nước hữu tình, qua cảnh ‘ tứ
thủy triều qui, tứ thú tụ ‘.Ðó là bốn mặt đều có nước bao bọc, còn bốn
con linh thú, tượng trưng cho hùng khí của xứ trầm hương, dùng để gọi
tên núi non trong tỉnh như Thanh Long kỷ thủy (Rồng xanh giỡn nước) tức
núi Cảnh Long, còn Bạch Tượng Quyện Hổ ( voi trắng cuốn cọp) thì chỉ
núi Sinh Trung ở Hà Ra, Hòn Trại Thủy là núi Dơi và Núi Một là Hòn Rùa
hay Hoa Sơn. Nha Trang .
Ngày nay dù đã qua bao cuộc thăng trầm dâu bể, nhưng ngôi thánh
đưòng cổ kính của địa phận Nha Trang được xây dựng từ năm 1930, vẫn còn
đứng sừng sững trên ngọn đồi thấp trong thành phố, với lầu chuông cao
ngất, từ đó chúng ta có thể chiêm ngưởng toàn bộ non nước hữu tình của
biển xanh, mây trắng, phố thị nguy nga đài các, làm cho tâm hồn lãng tử
cũng phiêu bồng theo điệu khúc ngàn năm của sóng nước.
Ðến đây cũng không thể không ghé chơi Chợ Ðầm, ngôi chợ lớn nhất
của Nha Thành, bị cháy và được xây lại năm 1972, nằm cuối hai con đường
đẹp nhất Ðộc Lập và Phan Bội Châu. Tóm lại ở đây bất cứ nơi nào cũng
đều là cảnh, như Chùa ông Bưởi, Hang ông Già, Suối Ồ Ồ, Suối Tiên, Hồ
Tiên, Suối Ðỏ, Suối Ngổ, Thành Cổ Diên Khánh, Hòn Chồng.. tất cả dù
thời gian có nhuộm màu mưa nắng nhưng vẫn làm xao xuyến hòạn người, khi
chạnh nghĩ tới công trình xây đắp của tiền nhân bao đời, bằng huyết lệ
thịt xường và tâm tình diễm tuyệt.
Tỉnh Khánh Hòa muôn đời là vậy đó, ngoài vẽ đẹp của thiên nhiên ở
đây còn có Hải cảng Cam Ranh, được thế giới đánh giá là tốt nhất vùng
Ðông Nam Á. Từ cửa sông Nha Trang, đi dọc theo bờ biển về hướng nam,
đến bãi cát Trường Tây, Trường Ðông dài hơn hai cây số , phía ngoài
biển có Hòn Cảnh Long. Qua cửa Bé trong Vịnh Cù Huân, sẽ thấy Dãy Hoàng
Ngưu Sơn trước mặt, che khuất Bán Ðảo Cam Ranh nằm ở cuối chân núi,
chạy thẳng ra tới biển theo hướng đông nam, như một bình phong vững
chắc, che chắn gió bảo đại dương cho Vịnh Cam Ranh và Vũng Thủy Triều.
Vùng này có Hòn Tí, Bãi Dài, Hòn Xe, là nơi cá tập trung nhiều
nhất, được ngư dân Khánh Hoà ngành Lưới Ðăng, gọi ‘ Huyết Mạch ‘.Từ năm
1969 về sau, khi toàn bộ các cơ cấu của Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận, từ Nha
Trang di chuyển về Ðặc Khu Cam Ranh, thì lệnh cấm đánh cá 3 km, từ biển
vào bờ tại vùng Huyêt Mạch, vì tất cả tàu thuyền chở hàng tiếp vận, gần
như cắp bến ở đây, mà không phải tới Ðại Ðội 50 Tiếp Liên, nằm trong
Cửa Lớn-Nha Trang, như khi quân đôi Hoa Kỳ chưa triệt thoái
2 - HẢI CẢNG CAM RANH :
Cam Ranh trước đây là một làng đánh cá nhỏ nằm trên vịnh cùng tên,
ở phía nam tỉnh Khánh Hòa.Theo quốc số 1 đi Sài Gòn, qua khỏi Nha Trang
chừng 40 km tới ngả ba Ba Ngòi, rẽ về hướng đông, qua cầu Long Hồ bắc
ngang Ðầm Thủy Triều, là tới thị xã Cam Ranh, mới được thành lập vào
thập niên 60 của thế kỷ XX. khi quân đội Mỹ và đồng minh vào tham chiến
Bán đảo Cam Ranh còn có tên là Bình Ba. Vùng này nổi tiếng về
những rặng dừa xanh rất sai trái và nước ngọt lịm. Do đó đã có nhiều
bài phong dao, xuất phát từ dân gian với lời lẽ rất trữ tình, nói lên
sự gắn bó của trai gái ở đây :
‘ Rừng dừa xanh mát Cam Ranh,
Trái sai nước ngọt, nên Anh quên về ‘.
Biển ở đây hầu như quanh năm suốt tháng xanh mát phẳng lờ, tạo nên
vùng vịnh hiền hòa không một nơi nào sánh được. Ðây là một bán đảo từ
đất liền lấn rất sâu ra đại dương, đã vậy còn có Hòn Bình Ba nằm án ngữ
, chịu hết sóng gió từ bên ngoài, làm cho Vịnh luôn luôn sóng lặng,
chẳng khác gì những dòng sông trong đất liền.
Hòn Bình Ba còn là nơi bao đời nổi tiếng về Tôm Hùm, mà dân gian
trong tỉnh Khánh Hòa đã truyền tụng ‘ Yến Sào Hòn Nội ố Vịt Lội Ninh
Hòa ố Tôm Hùm Bình Ba ‘.Tôm ở đây chẳng những to, thịt chắc ăn ngon mà
võ rất cứng có nhiều vân đẹp, nên được dùng trong thủ công nghệ để
trang trí, được cả nước yêu thích. Ngoài ra khí hậu ở đây cũng mát dịu
nhờ gió biển điều hòa, đẹp nhất là lúc mặt trời hiện lên rất sớm trong
bình minh và cũng đi ngũ muộn hơn các nơi khác , trong cảnh hoàng hôn,
giữa mây trôi, gió chiều, buồn thơ trên vịnh.
Vào những ngày sắp Tết, có hoa Mai mọc đầy trên răng Hoàng Ngưu
Sơn, làm vàng rực các lối đi. Tại đầm Thủy Triều có nhiều Sò Huyết ngon
ngọt, đâu có thua gì sò tại đầm Ô Long, thuộc quận Tuy An-Tuy Hòa. Rồi
sau Tết , bắt đầu từ tháng 4 âm lịch mùa Phật Ðản, cũng là mùa Xoài Cam
Ranh, được các nhà vườn đem bầy bán dọc theo Quốc Lộ 1, tới Chợ Ðàm Nha
Trang và lên xe lửa, xe đò ra tận Hà Nội cùng các tỉnh ở miền Bắc.
Ngoài ra Cam Ranh còn nổi tiếng nhờ rừng đừa Hiệp Mỹ, giống được Pháp
đem từ Bắc Phi tới trồng theo kỹ thuật đồn điền, ngay hàng thẳng lối,
rất đẹp mắt. Ở đây còn có những đồng cát trắng mịn, không phải chỉ dùng
để ngóng như ở Mủi Né-Phan Rí, mà còn được dùng trong kỹ nghệ đồ gốm,
để làm bát dĩa,ly tách, bình.rất được người Nhật ưa chuộng.
3 - CAM RANH , VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC SỐ 1 CỦA VN :
Ngay từ thế kỷ XVIII khi chiếm được Nam Hà của Chúa Nguyễn, Nguyễn
Huệ đã nhìn thấy giá trị chiến lược quân sự của vịnh Cam Ranh, nên
thiết lập tại đây một căn cứ Thủy Quân rất lớn và giao cho danh tướng
Trần Quang Diệu trấn giữ . Cảm khái trước cảnh hùng vỹ của đất nước,
ông viết :
‘ Diên Khánh tân thanh trang,
Cam Ranh hải thế thâm
Xuất sư yên liên tiệp
Báo quốc thế công tâm ‘
Theo hòa ước Giáp Thân (1884), lãnh thổ Trung Kỳ từ Thanh Hóa vào
tới Bình Thuận, là đất của Hoàng Triều Cương Thổ thuộc Triều Ðình Huế
nhưng thực dân Pháp đã ngang nhiên chiếm Cam Ranh để làm quân cảng.
Ðể cứu nguy hạm đội I sắp bị Nhật tiêu diệt nên Nga Hoàng đã phái
Ðệ Nhị Hạm Ðội Hắc Hải, đi vòng Ấn Ðộ Dương tới Viễn Ðông cứu viện. Hạm
đội này do Ðô đốc Rodjestvensky chỉ huy, rất đồ sộ với 52 tàu chiến đủ
loại, gồm 2 tiểu hạm đội thiết giáp hạm, một tiểu hạm đội tuần dương,
một tiểu hạm đội phóng thủy lôi và nhiền chiến hạm tiếp vận, chở lương
thực, vũ khí và than đá. Ðó là chưa kể nhiều tuần dương hạm ngoài biển,
một đoàn tàu ghé Nam Dương lấy than và chiếc tàu bệnh viện Orel đang
ghé Sài Gòn.
Theo sử liệu, Ðệ Nhị Hạm Ðội của Nga Hoàng, trên đường tới Hoàng
Hải để nghênh chiến với Nhật nhưng ngày 27-5-1905, khi Hạm đội chỉ mới
vào Eo Ðối Mã (Tsoushima) trong Nhật Hải, thì bị Hạm Ðội Nhật của Ðô
đốc Heihatiro Togo , phục kích tiêu diệt gần như toàn bộ, chỉ còn có 3
chiến hạm cũng bị hư hại nặng, chạy thoát được tới Phi Luật Tân. Trong
trận này, Ðô đốc chỉ huy Rodjestvensky và Nebrogatoff.. đều bị Nhật bắt
làm tù binh
Rõ ràng là lịch sử đã tái diễn, lần thứ 1 vào ngày 12-4-1905 Ðệ
nhị Hạm Ðội Nga đã xông vào Vịnh Cam Ranh hơn một tháng nhưng bị Pháp
đuổi đi. Bảy mươi bốn nam sau, lúc Cam Ranh đã được Hoa Kỳ khi tham
chiến tại VN, xây dựng thành đệ nhất quân cảng của Á Châu rồi để lại
cho VNCH , thì chính cọng sản Hà Nội đã mời Liên Xô vào Cam Ranh ngày
27-3-1979, với một tiểu hạm đội gồm khu trục hạm, tuần dương hạm và tàu
dò mìn. Cũng từ đó , Cam Ranh trở thành quân cảng lớn nhất của Hải Quân
Liên Xô ở hải ngoại và là tiền đồn chính của cọng sản đệ tam quốc tế
trên thủy lộ từ Ấn Ðộ Dương tới biển Thái Bình.
Ngày nay các bí mật của lịch sử thế giới lần lượt được công khai
phổ biến, sau khi Liên Bang Sô Viết và Ðông Âu bị sụp đổ vào năm
1990-1991. Nhờ vậy ta mới biết rõ, chỉ sau 11 ngày khi cuộc chiến biên
giới Việt-Trung bùng nổ, thì Phạm Văn Ðồng đã bí mật sang Mạc Tư Khoa
để ký kết với Liên Xô ‘ Hiệp Ước Nga-Việt’, được soạn thảo từ tháng
2-1979.
Trong lần ký này có diều 6, VC cho phép quân Nga được vào các căn
cứ quân sự đã ‘ CHO THUÊ’ trong số này có Cam Ranh, là một quân cảng
tốt nhất VN, vì mực nước sâu nên tàu thuyền loại nào cũng có thể vào
Vịnh được. Quan trọng nhất là những ngày sóng gió, bão tố, trọng vịnh
nước vẫn hiền hòa, vì tất cả đã bị bán đảo Bình Ba ngăn chặn lại. Cam
Ranh còn có ưu thế vì nằm giữa bờ biển rất dài của VN, có khoảng cách
ngắn nhất ra tới Hải lộ quốc tế so với bất kỳ hải cảng nào, như Hải
Phòng (18 giờ), Vũng Tàu (3 giờ), trong khi Cam Ranh ra hải phận quốc
tế chỉ mất 1 giờ.
Năm 1979 khi Nga vào Cam Ranh, quân cảng này vẫn còn nguyên vẹn
không cần phải làm gì, ngoại trừ việc Liên Xô phải thiết kế lại một hệ
thống tình báo riêng, để theo dõi chuyển động của Hải quân Mỹ, Trung
Cộng và Nhật tại biển Ðông. Cũng từ đó, hải lục không quân Liên Xô gia
tăng không ngừng trong quân cảng, từ 10 tàu chiến mỗi ngày năm 1979,
tăng lên 35 chiến hạm năm 1985, ngoài ra còn 40 chiếc phản lực các loại
lên xuống phi đạo trong quân cảng hằng ngày. Theo vệ tinh tình báo Hoa
Kỳ ghi nhận, từ năm 1979 về sau, thường trực tại Cam Ranh, luôn luôn có
sự hiện diện của 16 Oanh tạc cơ Badger của Hải quân và một Phi đội
Mig-23, cùng với nhiều phi cơ vận tải và thám thích. Tất cả tàu chiến,
máy bay, ra vào, lên xuống rộn rịp không thua gì thời Mỹ ở VN nhưng
tuyệt nhiên dân chúng kể cả người Cam Ranh-Khánh Hòa, không hề biết một
điều gì, vì tất cả bi VC giấu rất sâu, cũng như cấm lai vảng tới vùng
này.
Theo các nhà sử học, trong cuộc chiến Ðông Dương 2, Trung Cộng là
kẻ thất bại nhất chứ không phải người Mỹ. Nhờ cuộc chiến, mà Nga mới
đặt chân được ở VN và hất Tàu ra khỏi thế lực tại Ðông Nam Á.. Cũng
chính sự hiện diện quân sự của Nga tại Ðông Dương, đã kéo dài chiến
tranh tại Kampuchi giữa Miên và VC. Hà Nội đã giúp cho người Nga thực
hiện giấc mộng bá chủ Thái Bình Dương, sau năm 1979,. Nhờ phát xuất từ
căn cứ Cam Ranh, tàu chiến kể cả tiềm thủy đỉnh Nga, vừa được hưởng
những tiện nghi của Mỹ để lại, vừa ngang dọc tung hoành khắp đại dương
mà không sợ bị tố cáo, vì cư trú hợp lệ, qua hộ khẩu của VC cấp.
Ðiều này đâu có gì lạ, vì từ Hồ Chí Minh tới những lãnh đạo trước
sau trong đảng VC, hầu hết đều xuất thân từ Ðông Phương học viện tại
Mạc Tư Khoa. Bởi vậy dù xa cách vạn dặm, Hà Nội vẫn luôn luôn trung
thành với Nga Sô. Năm 1935, tài liệu của Ðông Dương Cọng Sản Ðảng đã
khẳng định ‘ Nga Sô là thành đồng bảo vệ cách mạng thế giới ‘.Từ năm
1965, Nga chống chủ nghĩa xét lại của Trung Cộng, đồng thời với việc
Hoa Kỳ và Ðồng Minh đổ quân ào ạt vào giúp VNCH.
Trước biến chuyển chính trị này, để quân bình chiến lược trong
chiến tranh lạnh giữa Nga-Mỹ-Trung Cộng, trong thế chẳng đặng đứng Nga
đã rốc túi quân viện cho Bắc Việt, dù sau đó VC đã rêu rao khắp làng,
là đàn anh chơi xấu không chịu viện trợ ‘ Hỏa tiển chống tàu ngầm’ để
Hà Nội tiêu diệt các chiến hạm Yankee Station, Dixie Station trong Hạm
Ðội 7 cũa Hoa Kỳ, hoạt động trong vịnh Bắc Việt. Nhưng cuối cùng nhờ
đỉnh cao trí tuệ loài người, nên dù Nga Sô không viện trợ hỏa tiển
phòng không, theo VC tuyên bố, Bắc Việt cũng chế được. Nhờ vậy suốt
cuộc chiến, Hà Nội đã bắn hạ nhiều pháo đài bay B52 của Hoa Kỳ, bắt
được nhiều tù bình, trong số này có thượng nghị sĩ đảng cọng hòa ‘ John
M.Cain ‘.
Ðương nhiên thái độ hào phóng của Trung Công hay Nga Sô đối với
VC, đều có cái giá riêng của nó. Ðể tranh ưu tiên với Trung Cộng, ngay
từ ngày 4-5-1975, lấy lý do trợ cấp nhân đạo, Ðiện Cảm Linh phái hai
chiến hạm Nina Sagaidah và Komsomdests Primoria chớ dầu, thực phẩm,
cùng với nhiều tàu khác vào Ðà Nẳng, Sài Gòn.. với thâm ý muốn xử dụng
lâu dài các hải cảng của Nam VN. Chuyện tàu Nga vào ra VN, càng khiến
cho Trung Cộng thêm ứa gan ‘ Bọn Xét Lại VC’ ‘ đang bí mật âm mưu với
đế quốc Nga, để cưởng chiếm Ðông Nam Á..
Sau đó Mao Trạch Ðông cảnh cáo Thái Lan, đồng thời hết lòng quân
viện và tâng bốc các lãnh tụ Khmer Ðỏ nhất là Polpot, đổ dầu vào ngọn
lữa thù hận của hai dân tộc Việt-Mên, gây nên cuộc chiến Ðông Dương 3,
giữa ba đảng cọng sản Tàu-Việt và Kampuchia, vào cuối năm 1978-1979, vô
cùng thảm khốc, tàn pha và giết hại không biết bao nhiêu sinh mạng
thường dân vô tội của ba nước liên hệ.
Một phần vì ghét thái độ hống hách của bọn lãnh đạo già nua Hà
Nội, trước chiến thắng bất ngờ như từ trên trời rớt xuống tại Miền Nam,
nên sướng quá tới điên loạn, trở thành ngu muội, nên tuyên bố một cách
xấc xược, chẳng những qua lời nói mà còn viết trên tờ Nhân Dân vào
tháng 7-1975 ‘ VC tự mình thắng cuộc chiến, chứ không nhờ Nga và Trung
Cộng ép Hoa Kỳ phải thua trận ‘.Nhưng quan trọng nhất, vẫn là cả Trung
Cộng lẫn Nga, lúc nào cũng muốn lợi dụng sự trung thành của VC để hưởng
lợi, chứ không phải như mọi người đã tưởng, là Hồ Chí Minh và VC đi
giây giữa Nga-Tàu trục lợi, nhờ cái thế đứng chiến lược của mình ở Viễn
Ðông.
Và tất cả đã hiện thực từ tháng 10-1975 khi cả Bắc Kinh lẫn Mạc Tư
Khoa , chẳng những từ chối viện trợ mà còn bắt VC phải trả lại những gì
đã vay, cộng thêm tiền lời tính ra nợ nần không bút mực nào ghi cho
hết. Mùa hè 1976, Nga hũy bỏ công trình xây cất viện trợ nhà máy luyện
thép và đập thủy điện sông Ðà ở miền Bắc.. Tháng 4-1977, Nga cắt hết
viện trợ dành cho VN, trong đó có xăng dầu và các phụ tùng vũ khí, xe
tăng, máy bay.. Ðã thế Trung Cộng từ sau tháng 5-1975 cũng cắt số gạo
viện trợ hằng năm lên tới 250.000 tấn.
Tại miền Nam tình hình biên giới Việt-Mên càng lúc càng hổn loạn,
vì Polpot được Trung Cộng chống lưng xúi giục, nên luôn gây hấn với VN
ngay từ đầu tháng 5-1975, khiến cho VC mỗi lúc mỗi nguy ngập vì thù
trong giạc ngoài. Bởi vậy để giữ mạng và giữ đảng, Hà Nội chỉ còn có
con đường duy nhất theo lời ‘ bác ‘ dạy là bán nước cho giặc, để tái
lập mối hữu nghi Việt-Nga, mà Hà Nội coi như một thành tụu vĩ đại.
Cũng từ đó, VC cho Nga-Tàu lập Tòa Lãnh Sự tại Sài Gòn Tháng
7-1977, phái đoàn quân sự cao cấp Nga tham quan quân cảng Ðà Nẳng, Nha
Trang và Cam Ranh. Tháng 10/1977 , VC đem nhiều xe tăng thiết vận xa,
đại bác của VNCH, cho Nga chở sang Ethiopie bán, để đổi lấy các quân
dụng phế thải gồm hai tàu ngầm, một khu trục hạm , một số tàu tuần
duyên và bốn phi đội chiến đấu cơ Mig-21.. Từ đó cố vấn Nga có mặt tại
VN nhất là Sài Gòn càng lúc càng đông đảo nhưng vì ẩn cư trong các căn
cứ cũ của Mỹ, nên đồng bào không ai ngờ. Thế là liên hệ Nga-Việt đã
được Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng và Võ Nguyên
Giáp.. tái lập hoàn toàn và công khai, trong đại tiệc tiếp tân Chính Ủy
quân dội Liên Xô là tướng A.Yeepishev tại Khách Sạn Thắng Lợi ở Hà Nội.
Trong lúc Khối Asean qua áp lưcỳ của Mỹ-Trung Cộng, dựng lên Liên
minh kháng chiến ba thành phần có Sihanouk tham dự, để chống lại VC
trên đất Chùa Tháp. Lúc đó Hà Nội gần như đã kiệt quệ hoàn toàn, nhất
là kinh tế trong nước và liên hệ bang giao quốc tế. Ðể đương đầu với
giặc Tàu phía bắc và nuôi dưỡng cuộc chiến đang sa lầy tại
Kampuchia,khiến cho Nga Sô trở thành chủ nhân ông của VN, tha hồ xử
dụng tất cả các căn cứ quân sự cả nước, mà quan trọng nhất là Vịnh Cam
Ranh, để bành truớng thế lực chống lại Mỹ-Tàu ở Thái Bình Dương.
Ðổi lại Nga viện trợ cho VC những quân dụng vũ khí phế thải của
khối Warsau, nhưng tính thành tiền lên tới 2 tỷ mỹ kim để trả tiền thuê
mướn căn cứ . Ðó là chưa kể tới quyền lợi to lớn mà VC đã dành cho Nga
khi khai thác dầu khí tại các quặng mõ nằm trong hải phận và thềm lục
địa của VN từ năm 1977.
Nhưng thế chiến lược giửa Mỹ-Nga-Tàu gần như đã bị thay đổi toàn
diện, khi Ronald Reagan thuộc đảng Cộng Hòa, đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ,
tái xác nhận liên hệ và bảo vệ Ðài Loan, dù bang giao Mỹ-Hoa rất tốt
đẹp, sau chuyến viếng thăm lịch sử của Ðặng Tiểu Bình năm 1979.
Không bỏ lở cơ hội khi nhìn thấy sự căng thẳng Mỹ-Hoa, nên Tổng Bí
Thư Liên Xô Brezhnev, ngày 24-3-1982 lập tức ve vãn Tàu và kêu gọi bình
thường hoá bang giao trở lại. Rồi thì một thỏa hiệp được ký vào năm
1985, tăng giá hợp tac thương mai giữa hai nước nhưng Nga vẫn còn bắt
cá hai tay, khi tiếp tục hổ trợ cho VC và không thay đổi chính sách đối
với Kampuchia.
Nhưng thói nào tật đó, nên khi đã đem lãnh thổ trong đó có Vịnh
Cam Ranh để đổi chác đồ phế thải của Nga đủ sức kềm chế Khmer Ðỏ, VC
lại muốn bỏ chân với Mỹ mời Hoa Kỳ năm 1985 tới Hà Nội tìm xác lính mất
tích. Rồi thì để cứu đảng và nền kinh tế đã bế tắc khắp nước, VC không
còn eo sách này nọ, mà chủ động hoàn toàn theo ý Mỹ trong việc rút hết
quân khỏi Kampuchia và giải quyết các vấn đề Mia, thả tù cải tạo, thực
thi chương trình đoàn tụ gia đình ODP. HO, PIP .. từ năm 1988. Thế là
lá rụng về cội Mỹ đi rồi Mỹ lại về, năm 1991 TT. G Bush (cha) tuyên bố
bãi bỏ lậnh cấm vận VC, năm 1995 TT Bill Clinton bình thường hóa quan
hệ VC-Hoa Kỳ, sau đó ký Hiêp Ứớc thương mại song phương Việt-Mỹ.. ra
đời..
Năm 1990-1991 lần lượt Ðông Âu tới Liên Xô theo bức tường ô nhục
Bá Linh sụp đỏ, người Nga cũng rời bỏ Cam Ranh , lui về Hải Sâm Uy
không phải không đủ tiền thuê mướn vì căn cứ quân sự trên, trong thời
chiến tranh điện toán và bom nguyên tử, chỉ còn giá trị trong đầu óc
của bọn lãnh đạo tham lam ngu muội Bắc Bộ Phủ mà thôi. Cho nên VC lại
gạ Mỹ để cho thuê , chẳng những Cam Ranh mà bất cứ quân cảng nào khắp
nước , nếu Mỹ muốn.
Nhiều biến chuyển thời cuộc diễn ra, làm nhiều người lại nghĩ
rằng, khúc quanh của lịch sử VN cận đại đã bắt đầu, khi thấy một chiến
hạm của Mỹ tên USS Gary cặp bến Sài Gòn ngày 29-3-2005. Tiếp theo Peter
Rodman, phụ tá tổng trưởng quốc phòng Mỹ, chuyên trách các vấn đề an
ninh thế giới, tới thăm Hà Nội ngày 8-6-2005, tiếp theo chuyến đi của
Robert Zoellick, phụ tá Ngoại trưởng Hoa Kỳ, mở đầu cho chuyến viếng
thăm Hoa Kỳ của thủ tướng VC Phan Văn Khải vào ngày 19-6-2005., sau đó
là Nguyễn Tấn Dũng năm 2008.. Cuối cùng Mỹ tuyên bố sẽ giúp VC bảo toàn
lảnh thổ toàn vẹn.. trước khi cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11
vừa qua.
11 giờ ngày 14-3-1973, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng với các
tướng lãnh Khiêm, Viên, Quang.. bay trên chiếc Air Force 1, từ Sài Gòn
tới Cam Ranh để họp mật với Tư lệnh QD2 là Thiếu tướng Phạm Văn Phú từ
Pleiku xuống. Cuộc họp bí mật diễn ra trong Tòa Tiểu Bạch Ốc Cam Ranh.
Căn nhà trắng lịch sử này được dựng trên một đồi cát mịn, mắt hướng ra
đồi dương. Theo tài liệu cho biết, phí tổn xây cất vào năm 1965 lên tới
cả triệu đô la . Mục đích để cho Tổng Thống Johnson và phái đoàn tới
làm việc và nghĩ một đêm khi thăm viếng quân đội Mỹ đang chiến đấu tại
VN.
Từ sau năm 1973, Hoa Kỳ rút quân về nước, tiểu bạch dinh bỏ hoang
cho tới ngày 14-4-1975 được TT Thiệu xử dụng lần cuối cùng, để ban lệnh
cho Tướng Phú bỏ QD2 và vùng Cao Nguyên, rút quân về phối trí bảo vệ
miền duyên hải Trung Phần, vì Mỹ đã thực sự cắt hết quân viện.
Những ngày đầu tháng 4-1975, sau khi QD2 bỏ cao nguyên, QD1 cũng
rút, bỏ ngỏ Quảng Trị, Huế, Ðà Nẳng và Quảng Ngải. Tình hình Cam Ranh
bắt đầu rối loạn vì nhiều đơn vị của QD1 được tàu Hải Quân di tản về
đặc khu. Tư lệnh QD1 là Trung tướng Ngô Quang Trưởng cùng với Sư đoàn
Thủy quân lục chiến, đã được HQ 404 vận chuyển từ Ðà Nẳng về Cam Ranh.
Sau đó TQLC được HQ802 chở về Sài Gòn, còn Sư Ðoàn 2 BB ở Quảng Ngải về
Cam Ranh, thì chuyển tiếp vào Hàm Tân, trang bị và tiếp tục tới chiến
đấu tại Phan Rang và Phan Thiết. Riêng HQ 403 kéo theo nhiều LCU của
BC2TV, cùng các LCVP,LCM .. sau khi vớt SD22 Bộ binh từ Qui Nhơn về Cam
Ranh, rồi được lệnh chở tiếp về Vũng Tàu. Những ngày cuối cùng SD22BB
chiến đấu với DPQ.TK Long An cho tơi khi bị ra lệnh bỏ súng vào trưa
ngày 30-4-1975, mới rã ngủ.
Lúc bấy giờ tại bán đảo Cam Ranh đông nghẹt quân số, đủ các đơn vị
từ Vùng 1 và 2 di tản về. Sáng ngày 1-4-1975, Bộ Tư Lệnh Vùng 2 Duyên
Hải dưới quyền chủ tọa của Phó Ðề Ðốc Diệp Quang Thùy, có mặt các tướng
lãnh Lê Nguyên Khang,Bùi Thế Lân Lâm Quang Thi.. bàn chuyện tử thủ Cam
Ranh. Nhưng rồi sau đó, mạnh ai nấy lên trực thăng về Sài Gòn. Chiều
cùng ngày, HQ 403 tức Hải Vận Hạm Ninh Giang, vào đón tân binh tại
Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Cam Ranh. Tình hình nơi này kể cả thị xã
Ba Ngòi , cũng không khác gì ở Ðà Nẳng, Qui Nhơn, dân và lính tranh
dành xuống được tàu thuyền, để khỏi bị lọt vào tay VC, nên bắn giết
nhau loạn ngầu. Mãi tới sáng ngày 2-4-1975, Phó Ðề Ðốc Thùy mới rời Cam
Ranh, bằng Hộ Tống Hạm Ðống Ða 07. Cuối cùng là Phó Ðề Ðốc Hoàng Cơ
Minh, sau khi thiêu hủy hết kho dụng cụ điện tử, trên đảo mới xuống
Tuần Dương Hạm TrầnNhật Duật-HQ03, vào Ninh Chử Phan Rang để tiếp tục
chiến đấu tại mặt trận Ninh Thuận đến ngày 16-4-1975. Hai giờ chiều
cùng ngày, Sư đoàn 10 Việt Cộng vào Cam Ranh bỏ ngõ, sau khi tiếp thu
thành phố Nha Trang không còn bóng một người lính nào..
Số phận của Cam Ranh ngày nay cũng đâu khác gì những ngày tháng
4-1975 nếu có , đó là kẻ tiếp thu ngày trước là bộ đội Bắc Việt, thì
bây giờ là bọn Tàu đỏ .. thế thôi .
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Chạp 2008
Mường Giang
|