Ðây không phải là một phóng sự hay một bài nghiên cứu xã hội với những
phương pháp khoa học của nó - mà chỉ là những điều vụn vặt mắt thấy tận
nơi, tai nghe tận chỗ - ghi lại một cách trung thực.
Tôi thấy bộ mặt Sàigòn đổi mới với : Những khách sạn 5 sao, 4 sao lộng
lẫy. Ðổi mới với những nhà hàng "vĩ đại" trên các tuyến đường du lịch.
Với những trung tâm "thư giãn" sang trọng, quý phái cỡ câu lạc bộ Lan
Anh. Với những vũ trường cực kỳ tráng lệ như vũ trường New Century
Hànội. Với những trường Trung học tư thục mang tên Mỹ, giáo sư Mỹ,
chương trình học của Mỹ, giảng dạy bằng tiếng Mỹ- học sinh phải trả học
phí bằng tiền Mỹ - 600US$ đến 1000US$ /tháng. (Giai cấp nào đủ sức trả
học phí nầy cho con? )
Tôi cũng hiểu rằng các nơi nầy là nơi ăn chơi của vương tôn công tử
"đỏ", các nhà giàu mới - thân nhân các quyền lực đỏ đứng đàng sau, các
quan chức đỏ đô la đầy túi. Họ đến đây để "thư giãn", uống rượu, đánh
bạc, cá độ và tìm gái. Uống chơi vài chai rượu ngoại VSOP, XO là chuyện
thường. Mỗi đêm có thể tiêu hàng ngàn đô la Mỹ cũng không phải là điều
lạ. Trong khi lương tháng của một thầy giáo Trung học trường công không
đủ để trả một chai rượu XO. Vụ MPU.18 cá độ hàng triệu US $ đã bị phanh
phui..là một thí dụ cụ thể.Vũ trường New Century bị Công an đến giải
tán vì các công tử và tiểu thư con các quan chức lớn nhảy đã rồi... "
lắc" suốt đêm. Vài hôm sau - đâu cũng vào đó... Tôi cũng thấy Sàigòn-
người, xe và phố xá dầy đặc, nghẹt thở - vài tòa cao ốc mọc lên vô trật
tự - ở xa xa, có cái trông giống như chiếc hộp quẹt.. nhà cửa mặt tiền
hầu hết đều lên lầu nhiều tầng. Kiến trúc hiện đại.Vật liệu nhập cảng
đắc tiền. Nhà trong hẻm - phần lớn cũng lên nhiều tầng cao nghệu. Có
nhiều khu xây cất bừa bãi, nhô ra thụt vào như những chiếc răng lòi xỉ
vô duyên , lấn chiếm ngang ngược đất công hoặc lề đường...
Tôi thấy Sàigòn bị ô nhiễm trầm trọng với hằng triệu tiếng động cơ,
ngày đêm đinh tai nhức óc và 3.000.000 chiếc Honda - phun khói mịt mù -
chưa kể đến xe hơi..Và hệ thống cống rãnh lạc hậu.. mỗi khi trời mưa
lớn - nước rút không kịp, ứ đọng tràn ngập nhà cửa. Hệ thống đổ rác còn
lạc hậu.. không đáp ứng nổi nhu cầu thải rác của 8.000.000 dân nhung
nhúc như kiến.. Sàigòn đầy dẫy những hàng ngoại do công ty ngoại quốc
sản xuất tại chỗ..hàng lậu của Trung quốc tràn vào vô số kể.. Máu kinh
tế Việt Nam bị loãng ra. Nhưng chế độ xã nghĩa im thin thít chịu trận,
không dám một lời phản kháng. Một chiếc xe Honda nhãn hiệu Trung quốc
giá khoảng chừng 1000 đô la Mỹ..chưa kể hàng Trung quốc lậu thuế, rẻ
mạt.. Thuốc lá và bia - bia nội, bia ngoại - có đủ.. Nhậu và hút là 2
cái mốt bình dân thời thượng nhứt ở Sàigòn. Ðảng viên, cán bộ - giai
cấp thống trị - nhậu.. Già nhậu, trẻ nhậu... con nít cũng tập tành
nhậu. Hút thì khỏi nói.. Giai cấp cán bộ răng đen mã tấu bây giờ là
giai cấp nắm thống trị - đã lột xác - không còn quấn thuốc rê, bập bập
phà khói mịt mù nữa - mà lúc nào cũng lấp ló một gói 3 con 5, Craven A,
trong túi. Lãnh đạo hút, cán bộ hút, dân chúng hút - thậm chí con nít
9, 10 tuổi ở đồng quê cũng phì phà điếu thuốc một cách khoái trá.. Các
hãng bia và thuốc lá ngoại quốc đã tìm được một thị trường tiêu thụ béo
bở. Cán bộ lớn cũng âu phục cà vạt hẳn hoi, xe hơi bóng loáng.. nhưng
bộ răng hô, mái tóc bạc thếch, và nước da mốc mốc.. cũng không dấu được
nét thô kệch của một anh nhà quê lên Tỉnh.
Tôi còn thấy Sàigòn với hiện tượng " tiếm công vi tư" lộng hành, ngang
ngược của Công an đến độ dân chúng quen thuộc, xem là một chuyện đương
nhiên như chuyện hối lộ đã trở thành cái lệ... bất thành văn trong chế
độ xã nghĩa. Chiếm đoạt một nửa công viên, xây nhà gạch dùng làm quán
cà phê.. Chưa thỏa mãn - ban đêm còn dọn thêm bàn ghế trên sân cỏ của
phần công viên còn lại và thắp đèn màu trên mấy chậu kiểng cho thêm thơ
mộng.. Ông chủ bự nầy chắc chắc không phải là dân thường. Ông lớn nầy
xem công viên như đất nhà của ông vậy.Ai có dịp đi ngang qua mũi tàu -
nơi gặp gỡ của 2 đường Nguyễn Trãi và Lê Lai cũ, ngang hông nhà thờ
Huyện Sĩ - thì rõ.
Còn nhiều.. rất nhiều chuyện lộng hành chiếm đất công, lấn lề đường
nhan nhản ở khắp Saigòn. Chỉ đưa ra vài thí dụ cụ thể : Một công thự
tại vườn Tao đàn ( có lẽ là nhà cấp cho viên Giám đốc Công viên Tao
đàn) - mặt tiền ngó vào trong - mặt hậu nhìn ra phía đường Nguyễn Du
(Taberd cũ ) - bèn có màn trổ cửa mặt sau nhà, xây thêm phía sau thành
2 căn phố thương mãi mặt tiền ngó ra đường Nguyễn Du, trị giá mỗi căn,
nhiều trăm ngàn mỹ kim - ngon ơ! Tương tự như vậy - ở góc đường Thành
Thái và Cộng Hòa cũ... trước sân nhà của ông Hiệu Trưởng trường Quốc
gia Sư Phạm trước 75 - phố thương mãi, quán xá la liệt chiếm mất mặt
tiền. Ngang ngược và lộng hành nhứt là 2 căn phố thương mãi bên hông
trường Trương minh Ký, đường Trần hưng Ðạo, chễm chệ xây lên ngay bên
góc phải sân trường như thách đố dân chúng..Còn trên lề đường khá rộng
trước câu lạc bộ CSS cũ, bây giờ là câu lạc bộ Lao động - nhiều gian
hàng thương mãi bán quần áo, giày vớ thể thao.. buôn bán ầm ĩ, náo
nhiệt suốt ngày.
Công an chiếm đất công, xây nhà tư. Công viên, lề đường trước nhà dân
là đất riêng của Công An. Công an sử dụng làm chỗ gửi xe, bịt kín cả
lối đi vào nhà. Không ai dám hó hé. Im lặng là an toàn.Thưa gửi là dại
dột. Mà thưa với ai?Tất nhiên là phải thưa với công an.Không lẽ công an
xử công an? Tướng CS Trần Ðộ phản ảnh còn rõ rệt hơn : "... Xã hội Việt
Nam ngày nay là một xã hội vô pháp luật mà phần đầu tiên gây ra là
Ðảng. Không thể nào chống tham nhũng được vì nếu Ðảng chống tham nhũng
thì Ðảng chống lại Ðảng sao?"("Nhật ký Rồng rắn" của Trần Ðộ ).
Nón cối, nón tai bèo, dép râu, áo chemise xùng xình bỏ ngoài chiếc quần
màu *** ngựa của người cán bộ CS ngơ ngác khi mới vào Sàigòn - đã biến
mất.. Cũng không còn thấy những chiếc áo dài tha thướt của những cô gái
đi dạo phố ngày cuối tuần trên các đại lộ Lê Lợi, Lê thánh Tôn, Tự do
những ngày trước 75 nữa. Thay vào đó là một đội ngũ phụ nữ - mũi và
miệng bịt kín bằng "khẩu trang", găng tay dài đến cùi chỏ, cỡi Honda
chạy như bay.. trên đường phố.
Tôi còn thấy những người nghèo khổ chở trên chiếc xe thồ, những thùng
carton và bao túi nylon, chồng chất lên nhau cao ngất như sắp đổ
xuống...những bà cụ già, những cậu bé tuổi đáng được ngồi ở ghế nhà
trường.. những anh phế binh cụt tay, cụt chưn, lê lết trên một miếng
ván gỗ... đi bán vé số (một cách ăn xin trá hình )... những em bé mặt
mũi lem luốc đang bươi những đống rác để lượm các bao nylon, lon coca,
chai bia đem về bán.. hay những em bé rách rưới lang thang trước những
tiệm ăn.. chờ khách ăn xong nhào vô bưng tô súp cặn húp vội đỡ
lòng..còn những trẻ khác - mắt láo liên trông chừng công an, tay chìa
chiếc hộp, làm dấu mời khách đánh giày -..những em bé gái đang hì hục
đẩy khách lên đồi cát bằng miếng ván có gắn bánh xe ở "Ðồi cát bay"
Phan Thiết. Hỏi "sao em không đi học"? - trả lời : "Nhà không đủ cơm
ăn, con làm cái nầy để kiếm thêm cơm ăn.".. Nhiều bà mẹ nhăn nhó ôm
thằng bé mặt mày xanh lét, không còn chút máu, chờ suốt buổi sáng..
trước tiếng quát tháo ầm ĩ.. vẫn chưa tới phiên mình vào bệnh viện chữa
trị cho con.. Nghe nói mấy năm trước đây có nhiều bà mẹ đứng trước bệnh
viện Chợ Rẩy chờ bán máu mình để qua cơn đói khổ ngặt nghèo như nhà văn
Trần trung Ðạo đã mô tả..Lại nghe một bệnh nhân dứng cạnh đó, cũng chờ
đến lượt mình, than thở : " Ở đây là vậy đó ông ơi! Chửa bệnh phải có
tiền - trước nhứt phải qua cửa - lọt qua cửa thì còn nhiều khâu - khâu
nào cũng phải chìa tiền. Muốn sống - phải có tiền. Chết cũng phải có
tiền.
Bộ mặt Sàigòn "đổi mới" bằng những khách sạn lộng lẫy, những câu lạc bộ
thời thượng, những phố xá thương mãi sang trọng, những hiệu kim hoàn
lóng lánh kim cương, những nhà hàng ăn vĩ đại, những vũ trường cực kỳ
tráng lệ, những biệt thự đồ sộ nguy nga mới xây bằng vật liệu ngoại đắt
tiền.. trang trí cây cảnh như một mảng vườn Thượng uyển của vua chúa
ngày xưa.. những xe hơi bóng loáng nhởn nhơ trên đường phố - nhiều
người chóa mắt.. choáng váng, cho là "Việt Nam bây giờ tiến bộ quá".
Riêng Phó thường dân tôi tự nghĩ : Như vậy có phải là tiến bộ không? Sự
tiến bộ của một nước cần phải nhìn về nhiều mặt : Mặt y tế và giáo dục,
mặt đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng.. Lợi tức đầu người
của Việt Nam - theo thống kê của báo The Economist - bằng : 555 US $
năm 2007 ( Hà Nội bốc lên 730 US $ )chỉ hơn Lào và Cambodia chút đỉnh.
So với các nước láng giềng : Thái Lan : 2550 US $ - Phi luật Tân :
1040US$ - Nam Dương : 1160US$.Tân gia Ba 24840US$.( The Economist
World, năm 2007 - p.158, 176, 238 ) - Việt Nam còn lẹt đẹt đàng sau rất
xa. Và trước bộ mặt thay đổi choáng ngợp nầy - nếu đặt câu hỏi : Ai là
chủ nhân của những xe hơi, khách sạn- vũ trường, những thương hiệu lớn,
những biệt thự lộng lẫy kia? - thì câu trả lời không sợ sai lầm là của
cán bộ đảng viên (tại chức hoặc giải ngũ) hoặc con cháu thân nhân của
họ. Và ở thôn quê - giai cấp giàu có bây giờ là ai? giai cấp địa chủ là
ai? Có phải do của cải của ông cha để lại hay do sự kinh doanh tự do,
mua bán làm ăn mà có ?
Cho dù núp dưới cái hào quang chiến thắng "đánh Tây, đuổi Mỹ" - cho dù
che giấu, lấp liếm, giải thích thế nào chăng nữa - thì dân miền Nam (
gồm cả Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do ) vẫn thấy một sự thật. Sự thật đó
là người Bắc XHCN tràn ngập, chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mãi trọng
yếu của Sàgòn. Làm sao nói khác được khi đi một vòng quanh Sàigòn.. và
các khu phố sầm uất nhứt.. vào những hiệu buôn lớn để mua hàng hay hỏi
han chuyện trò thì thấy toàn là người Bắc Cộng sản - từ cô bán hàng đến
bà chủ ngồi phía trong - cũng toàn là người của xã hội chủ nghĩa miền
Bắc. Các tiệm buôn lớn trước 75- như các tiệm vàng Nguyễn thế Tài,
Nguyễn thế Năng, Pharmacie Trang Hai, tiệm Émile Bodin của bầu Yên, nhà
hàng Bồng Lai, Thanh Thế, Nguyễn văn Ðắc, Phạm thị Trước.. hiện nay,
một số đã đổi bảng hiệu hoặc xây cất lại..nhưng đều do người miền Bắc
XHCN làm chủ. Các cơ sở khác như nhà hàng ăn lớn, tiệm phở, công ty
thương nghiệp, dịch vụ lớn, những tiệm buôn bán dồ nhập cảng v.v.. cũng
đều do người Bắc XHCN chiếm giữ..
Tuy không có con số thống kê chính xác nhưng tự mình đi đếm hàng trăm
tiệm buôn sang trọng quanh các khu phố lớn ở Sàigòn.. thì khám phá ra
được chủ nhân là người Bắc XHCN. (Tất nhiên là vợ con, thân nhân cán bộ
lớn ).Những gái Bắc XHCN bán hàng là con cháu của chủ nhân người Bắc CS
( do các cô tự nói ra ). Các cô chiêu đãi viên trên phi cơ VNHK đều là
người Bắc thân nhân hay con cháu cán bộ - dĩ nhiên - vẻ mặt lạnh lùng,
hách dịch với người Việt Nam và khúm núm lịch sự với khách ngoại
quốc..Cán bộ, công nhân viên trọng yếu - cũng đều là người Bắc - trừ
một số cán bộ gốc miền Nam tập kết - theo đoàn quân viễn chinh vào đánh
chiếm miền Nam - thì cũng kể họ là người XHCN miền Bắc. Hệ thống quyền
lực từ trên đến dưới - từ Trung ương đến địa phương - từ Tỉnh thành đến
quận lỵ, thị trấn, làng xã gần - đều do đảng viên người miền Bắc XHCN -
nắm giữ.Những công Ty dịch vụ có tầm cỡ, những công Ty thương mãi sản
xuất lớn - điển hình là một công Ty vận tải và du lịch có đến 6000 xe
hơi đủ loại..chủ nhân cũng là người Bắc XHCN.Từ chính trị đến văn hóa,
từ giáo dục đến truyền thông, từ nhà cầm quyền cai trị đến chủ nhân cơ
sở thương mãi, sản xuất - cũng do người miền Bắc XHCN nắm giữ.
Ðó là sự thật trước mắt ai cũng thấy. Còn những vàng bạc, kim cương, đô
la, tài sản tịch thu, chiếm đoạt được trong các cuộc đánh tư sản, cải
tạo công thương nghiệp - nhà cửa của tù cải tạo, của dân bị đuổi đi
kinh tế mới, những tấn vàng của VNCH để lại những lượng vàng thu được
từ những người vượt biên bán chánh thức - tài sản những người thuộc
diện tư sản - toàn bộ tài sản nầy từ Saigòn đến các Tỉnh miền Trung,
miền Nam - được đem đi đâu? - Không ai biết.
Thông thường - những của cải nầy phải được sung vào công quỹ - để làm
việc công ích như các ông cộng sản thường rêu rao bằng những mỹ từ đẹp
đẽ.. Thế nhưng - sự thật trước nhứt - là các ông đem chia chác nhau.
Chia nhau một cách hợp hiến và hợp pháp theo Luật pháp XHCN ( Ðọc Ðất
đai-Nguồn sống và Hiểm Họa của Tiến sĩ Nguyễn thanh Giang). Ông lớn lấy
tài sản lớn. Ông nhỏ - nhà cửa nhỏ. Có ông cán bộ trung cấp chiếm hữu
đến 4, 5 căn nhà. Ở không hết... đem cho công Ty ngoại quốc thuê. Ðiều
phổ biến nhứt là các ông cán bộ nầy - vì lo sợ cái gì đó - bèn đem "
bán non" những căn nhà đó lấy tiền bỏ túi trước. Một căn nhà của một
viên chức tù cải tạo đã sang tay đến 3 đời chủ. Nhà cửa thuộc diện tù
cải tạo là dứt khoát phải tịch thu - không ngoại lệ. Những trường hợp
con ruột có hộ khẩu chánh thức còn được phép ở lại - là những biện pháp
vá víu. Chủ quyền căn nhà nầy là Nhà nước XHCN.
Không chỉ có những người thuộc diện cải tạo công thương nghiệp, tù cải
tạo, vượt biên mà người dân thường có nhà cửa phố xá..đều bị "û giải
phóng" ra khỏi nhà bằng nhiều chánh sách : Ðuổi đi kinh tế mới, dụ vào
hợp tác xả tiểu công nghiệp, mượn nhà làm trụ sở, cho cán bộ vào ở
chung( chủ nhà chịu không nổi... phải bỏ đi ), đổi tiền để vô sản hóa
người dân, khiến họ bắt buộc phải bán tất cả những gì có thể bán để mua
gạo ăn, cuối cùng chịu không nổi, phải bán nhà với giá rẻ bỏ..để vô hẻm
ở, ra ngoại ô hoặc về quê... Cán bộ hoặc thân nhân cán bộ miền Bắc XHCN
tràn vào "mua" nhà Saigòn với giá gần như cho không...và bây giờ là chủ
những căn nhà mặt tiền ở Saigòn.
Mang xe tăng T.54, cà nông Liên xô, AK Trung cộng, đẩy hàng hàng lớp
lớp thiếu niên "xẻ dọc Trường Sơn" bằng máu, nước mắt và xác chết...
vào xâm chiếm miền Nam . Chiêu bài là "giải phóng" nhân dân miền Nam -
nhưng sự thật khó chối cãi được - là vào để chiếm đoạt tài sản, đất
đai, của cải, đuổi dân Saigòn ( gồm cả người Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự
Do ) ra khỏi Thủ Ðô bằng nhiều chánh sách khác nhau - để bây giờ chính
các ông đã trở thành những nhà tư bản đỏ triệu phú, tỉ phú đô la, vàng
bạc kim cương đầy túi - những ông chủ công Ty có tầm vóc, những địa chủ
đầy quyền lực.. Trương mục ở nước ngoài đầy nhóc đô la. Con cái du học
ngoại quốc.( Trường hợp con Thủ Tướng CS Nguyễn tấn Dũng đang du học Mỹ
là trường hợp điển hình). Như vậy hành vi nầy gọi là gì?Trong những lúc
canh tàn rượu tỉnh - một mình đối diện với lương tâm thuần lương của
mình - các ông tự gọi mình đi.
Ðến thời "mở cửa" - cơ hội hốt tiền còn nhiều hơn..gấp bội. Tư bản
ngoại quốc ồ ạt đầu tư, khai thác dầu khí, thâu đô la Việt kiều về thăm
quê hương - đô la khách du lịch ngoại quốc, bán đất cho Công Ty ngoại
quốc xây cất cơ xưởng, cấp giấy phép các công Ty ngoại quốc, các dịch
vụ đấu thầu xây cất cầu cống, làm đường sá, xây cất đại công tác. Những
món nợ kếch xù từ Ngân hàng thế giới, từ quỹ tiền tệ quốc tế - những
món nợ trả đến mấy đời con cháu cũng chưa dứt.. Những đại công tác nầy
mặc sức mà ăn.. no bóc ké.. Nhiều công trình vừa xây cất xong..đã muốn
sụp xuống vì nạn ăn bớt vật liệu. Một thí dụ diễn hình : Một bệnh viện
gần chợ "û cua" Long Hồ - quê hương của Phạm Hùng - nước vôi còn chưa
ráo.. đã muốn sụp. Hiện đóng cửa không sử dụng được.
Hiện tượng người Bắc XHCN khống chế toàn bộ, làm chủ nhân ông mọi lãnh
vực, chiếm hữu nhà cửa, phố xá thương mãi ở những khu thương mãi quan
trọng nhứt - là một sự thật không thể chối bỏ. Cán bộ lớn đã trở thành
những nhà tài phiệt đầy quyền lực - những ông chủ lớn giàu có nhứt lịch
sử. Trong khi dân chúng miền quê - nhứt là miền Nam - ngày càng nghèo
khổ, thất nghiệp kinh niên.. Khoảng cách giàu nghèo càng lớn - đời sống
cán bộ và dân chúng càng ngày cách biệt..Giàu thì giàu quá sức. Nghèo
thì nghèo cùng cực.
Nhà văn - bác sĩ Hoàng Chính - gọi thời kỳ sau 75 là thời "Bắc thuộc" -
"Năm Bắc thuộc thứ 2 : Lưu vong tại quê nhà trong cái đói lạnh. - Năm
Bắc thuộc thứ 6 : Cầu cho em nhỏ 10 tuổi đầu đủ cơm ăn giữa bầy thú hát
điên cuồng chuyện thù oán. - Năm Bắc thuộc thứ 12 : Trong ngục thất quê
hương ấy, có những bộ xương thôi tập khóc cười.."
Miền Bắc XHCN đem quân xâm chiếm miền Nam để khống chế nơi đó bằng sự đô hộ hà khắc và tinh vi.
BỘ MẶT THÔN QUÊ MIỀN NAM
Có nhìn tận mắt, nghe tận nơi, mới hình dung được khuôn mặt miền Nam
sau 32 năm dưới chế độ cọng sản. Ðể được trung thực - người viết ghi
những điều thấy và nghe - không bình luận - tại những nơi đã đi qua.
Thôn quê miền Nam - những làng xóm gần tỉnh lỵ quận lỵ đã có điện.
Những làng xã xa xôi hẻo lánh vẫn còn sống trong sự tăm tối. Ðường sá
có tu sửa phần nào..Ðường mòn đi sâu vào thôn xóm được lót bằng những
tấm dalle lớn (đường xóm Cái nứa, Cái chuối xã Long Mỹ VL), xe Honda và
xe đạp chạy qua được. "Cầu tre lắt lẻo", cầu khỉ được thay thế bằng cầu
ván, cầu đúc (vật liệu nhẹ). Cầu tiêu công cộng trên sông các chợ quận
(Cái bè, Cái răng ) nay không còn thấy nữa. Nhà cửa dọc theo bờ sông
Cần Thơ - chen vào những nhà gạch ngói, nhà tôn - còn nhiều nhà lá
nghèo nàn. Tương tự như vậy - dọc theo bờ sông Long hồ - một số nhà
gạch nhỏ mới cất..xen kẻ những mái lá bạc màu. Vùng Trà ốp, Trà cú
(Vĩnh Bình), chợ Thầy Phó (Vĩnh Long ) nhiều nhà gạch mới xây nhưng vẫn
không thiếu nhà lá, nhà tôn. Ðường mòn chạy sâu vào thôn xóm vẫn còn
đường đất lầy lội vào mùa mưa nước nổi..
Hai bên đường xe chạy từ Mỹ Tho, Cao Lãnh, Châu Ðốc, Hà Tiên, Rạch Giá,
Cần Thơ. Nhìn chung - có một sự thay đổi rõ rệt. Nhà cửa, hàng quán dầy
đặc, động cơ ồn ào, người ta chen chúc.. Cảm giác chung là ngột ngạt,
khó thở. Những vườn cây xanh um bên đường đã biến mất..hoặc thụt sâu
vào trong, không còn thấy nữa. Không còn vẻ đẹp thiên nhiên ngày nào
của vườn xoài cát sai oằn, mát mắt vùng Cái Bè, An Hữu, vườn mận Hồng
Ðào chạy dài hàng mấy cây số ở Trung Lương..
Dưới sông - từ kinh Vĩnh Tế chảy dài ra sông Tiền Giang - hai bên bờ
toàn là nhà sàn, phía sau chống đỡ sơ sài bằng những trụ cây tràm. Mỗi
nhà hoặc 2, 3 nhà đều có cầu tiêu tiểu bắc phía sau. Tắm rửa giặt giũ,
múc nước lên uống, phóng uế - cũng cùng trên một dòng sông. Không có gì
thay đổi. Làng Chàm còn gọi là chà Châu Giang cũng còn đó. Cũng nghèo
như trước. Những chiếc ghe vừa dùng làm nhà ở, vừa là hồ nuôi cá..
Basa, cá điêu hồng v.v.. ở dọc bờ sông khá dài..Dường như ngành nầy
hoạt động khá mạnh. Dọc trên những nhánh phụ lưu của 2 con sông Tiền và
sông Hậu - người ta không còn thấy bóng dáng của những cô gái thướt tha
trong chiếc áo bà ba và chiếc quần lãnh Mỹ A, chèo ghe tam bản, bơi
xuồng như thời trước 75 nữa.. Hỏi một ông già tên Ph. tại Cái Răng,
được trả lời : "Ði lấy Ðại Hàn, Ðài Loan hết rồi ông ơi!" Tôi hỏi thêm
: "Các cô gái có nghe nhiều người bị gạt bán vào ổ mãi dâm, nhiều cô
gái bị chồng bắt làm lao động khổ sai, bị ngược đãi, đánh đập.. các cô
gái nầy không sợ sao ông? - "Biết hết - mấy cổ biết hết, báo Tuổi trẻ
đăng hàng ngày. Nhưng cũng có những cô có chồng Ðại Hàn, cho tiền cha
mẹ xây nhà gạch. Cô khác thấy vậy ham. Phần nghèo, phần không có việc
làm kinh niên. Họ liều đó ông. Biết đâu gặp may." Câu chuyện gái Việt
lấy chồng Ðại Hàn, Ðài Loan hiện không ai là không biết.
Tờ Tuổi trẻ - số ra ngày mùng 1 Tết năm Ðinh Hợi - trong bài : "Nỗi đau
từ những con số"- có nói đến số phận của 65000 phụ nữ đang làm vợ những
ông chồng Ðài Loan già, tàn tật đui mù, làm vợ tập thể cho cả gia đình
cha lẫn con. Cũng tờ báo nầy : "Tại một tổ chức kết hôn lậu, hàng chục
cô gái đang "bày hàng" để 2 ông Hàn quốc tuyển chọn làm vợ và 118 cô
gái khác đang nằm, ngồi, lố nhố chờ đến lượt mình " Và cũng tờ Tuổi Trẻ
số phát hành ngày 25-04-2007, viết : "Hơn 60 cô gái, tuổi từ 18 đến 20
từ miền Tây Nam bộ lên Saigòn để dự tuyển.Các chàng rể Hàn Quốc được
quyền soi xem kỷ, chú ý đến cả từng vết thẹo trên thân thể cô gái. Dịch
vụ môi giới hôn nhân lậu có chiều hướng gia tăng.Chỉ trong vòng nửa
tháng mà Công An đã phát hiện 3 vụ môi giới hôn nhân trái phép ở quận
6, 10 và Tân Bình với gần 400 lượt cô gái hiện diện.Thậm chí - những cô
gái được xe ôm chở tới địa điểm dồn dập gây náo loạn cả xóm".
Người viết có lần lang thang trên đường Nguyễn tri Phương tìm quán ăn
cơm trưa, có chứng kiến tại chỗ: Từng cặp trai gái lố nhố xếp hàng đôi
trước cửa một trường học, để lần lượt vào trong. Hỏi một người trung
niên lái xe Honda ôm, được anh trả lời : "Ðó là những người con gái đi
lấy chồng Ðài Loan và Ðại Hàn. Hàng bên trong là những người đang làm
thủ tục xuất ngoại theo chồng. Hàng bên ngoài là những người đang vào
ký giấy hôn thú sau khi đã qua các cửa ải môi giới và thủ tục tuyển
lựa". Tôi nhìn kỹ các cô gái nầy tuổi rất trẻ.. khoảng chừng 18 đến
20... đứng cặp với những anh Tàu già sồn sồn- có một người tàn tật.
Không thấy có thanh niên trẻ. Nhìn cách ăn mặc và nghe họ nói chuyện -
tôi đoán chừng họ đến từ miền Tây Nam Bộ. Ðây là tổ chức môi giới chánh
thức có giấy phép hành nghề.
Song song với tổ chức chánh thức, còn có một tổ chức "môi giới hôn nhân
lậu"- sự thật là một tổ chức buôn người, chuyên đi dụ dỗ trẻ em và gái,
nói gạt là đi bán hàng hay đi làm việc tại các cơ xưởng ngoại quốc
nhưng là để bán thẳng vào các ổ mãi dâm ở Kampuchia, Thái Lan, Ma cau..
để nơi đây huấn luyện trẻ em làm nô lệ tình dục.. các cô gái làm điếm..
hoặc bán cho người Tàu bỏ tiền ra mua nô lệ.. Tất nhiên là phải có sự
tiếp tay che chở ăn chia của Công An. Nói là lậu nhưng thật ra là nhan
nhản xảy ra hằng tuần-thậm chí hằng ngày trước mặt dân chúng tại các
quận Bình Thạnh, quận 11..Sàigòn.
Cho dù chánh thức hay lậu.. hậu quả cũng gần giống nhau. Chánh thức thì
có giấy phép, có công an làm thủ tục, chánh phủ thu tiền lệ phí. Lậu
thì lén lút với sự che chở của Công An. Hậu quả gần giống nhau. Nhiều
cô gái về làm vợ mấy tên Ðài Loan, Ðại Hàn bị ngược đãi, đánh đập tàn
nhẫn - ban ngày làm nô dịch.. ban đêm phục vụ tình dục.. rồi bán vào
động mãi dâm lấy tiền gở vốn lại..( Trại cứu giúp nạn nhân của cha Hùng
ở Ðài Bắc là một bằng chứng ) Còn lậu thì.. bán thẳng vào ổ điếm. Biết
bao nhiêu thảm cảnh.. biết bao nhiêu bi kịch thương tâm làm rúng động
lương tâm nhân loại.Cựu Quốc Trưởng Sihanouk không giấu được nỗi xót xa
trước thảm cảnh người phụ nữ Miên làm vợ mấy thằng Tàu..lên tiếng kêu
gọi họ trở về nước. Không thấy Việt Nam nói nửa lời! Những cô gái nầy
có biết những thảm kịch đau thương, những sự hành hạ, ngược đãi, đánh
đập.. nầy khi lấy chồng Ðài Loan, Ðại Hàn không? Có bị cưỡng bức, bị dụ
dỗ hay tự nguyện? Cha mẹ có đồng ý hay cản trở? Nguyên nhân nào đã thúc
đẩy họ dấn thân vào con đường hiểm nguy, tương lai mù mịt..?
Trừ những trường hợp bị dụ dỗ qua đường dây buôn người - những người
con gái này thật sự là họ TỰ NGUYỆN. Họ còn phải vay tiền mua sắm, ăn
diện, hối lộ để được giới thiệu. Nhưng nguyên nhân nào thúc đẩy họ đi
lấy chồng Ðài Loan, Ðại Hàn?
Có thể có nhiều nguyên nhân phức tạp. Phó thường dân tôi chỉ đưa ra vài
nhận định thiển cận như sau : Quá nhiều chương trình ngăn chống lũ lụt,
chương trình công nghiệp hóa, đô thị hóa...bừa bãi, không được nghiên
cứu cẩn trọng.. đất đai canh tác bị thu hẹp. Dân số gia tăng... Khối
lượng đông đảo người miền Trung, Bắc XHCN tràn vào.. Nông dân miền Nam
thiếu đất canh tác.. Các cô gái miền Tây.. quẫn bách vì không có việc
làm kinh niên - cuộc sống vô vọng mịt mờ - có nhiều trường hợp bị thúc
đẩy vì cha mẹ mắng nhiếc, đay nghiến... khi so sánh con gái mình với cô
con gái làng bên có chồng Ðại Hàn mang tiền về xây nhà gạch cho cha mẹ.
Và cũng vì hấp thụ một nền giáo dục của chế độ CS ( sinh sau 75 ) -
những người trẻ tuổi không có ý niệm về luân lý đạo đức cũ.. thang giá
trị bị đảo lộn.. nên họ không đặt nặng danh dự, sĩ diện như thời
trước.. Do vậy - khi bị dồn vào đường cùng.. họ đành đánh liều nhắm mắt
đưa chưn.. Nhưng động lực chánh là nghèo..
NGHÈO...
Là nguyên nhân chánh đưa đẩy các cô gái miền Tây Nam Bộ đi lấy chồng
Ðại Hàn và Ðài Loan... để hy vọng thoát khỏi cảnh đời cơ cực, vô vọng
không lối thoát.. Thế nhưng tại sao đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) -
vựa lúa nuôi sống cả nước - sau 32 năm dưới chế độ CS lại trở nên nghèo
như vậy - nghèo hơn cả đồng bằng sông Hồng (ÐBSH)? Theo tiêu chuẩn
nghèo từng vùng của Tổng cục thống kê Việt Nam - thì tỷ lệ ÐBSCL năm
1998 : ÐBSC : 37%. ÐBSH : 29%. Năm 2002 : ÐBSCL : 13 %. ÐBSH : 9%.(Nhà
x.b Thống kê - Hànội, trang 13 - LVB trích
dẫn ).
Dù theo tiêu chuẩn nào : tiền tệ ( tính bằng tiền hay bằng gạo) - mức
sống ( bao gồm lương thực, nhà ờ, mức sống văn hóa ) - ÐBSCL vẫn nghèo
hơn ÐBSH - bởi lẽ khi nghèo về lương thực - thì khó có thể giàu về nhà
ở và đời sống văn hóa.
Ðó là cái nghèo mà anh Lâm văn Bé đã nhìn qua những con số có giá trị
của những chương trình nghiên cứu thống kê khoa học. Và sau đây là cái
nghèo miền Nam qua cái nhìn tận mắt, nghe tận nơi của người viết : Cái
nghèo ở Việt Nam bao gồm cả thành thị lẫn thôn quê là cái nghèo thiếu
trước hụt sau, ăn bữa sáng lo bữa chiều - cái nghèo của một nông dân,
nhà dột nát.. khi trời mưa lúc ban đêm..không có chỗ để nằm phải tìm
một góc nhà, phủ cái mền rách lên người ngồi run cằm cặp.. trước từng
cơn gió lạnh buốt lùa vào căn nhà trống hốc... Cái nghèo của một người
đi mượn tiền, mượn gạo.. tới ngày hẹn không tiền trả.. Cái nghèo của
một thanh niên thất nghiệp.. cha bị lao phổi không tiền mua thuốc nằm
ho sù sụ..mẹ bơi xuồng đi bán bắp nấu không đủ gạo cho một đàn con 4
đứa, mũi dãi lòng thòng đang bốc đất cát chơi ngoài sân.
Tục ngữ bình dân có câu : Ít ai giàu 3 họ, khó 3 đời.- Có. Tôi quen
biết ông Sáu S. làm nghề chài lưới.. ở sông Long Hồ. Ðời con là anh Tư
Te tiếp nối nghề nầy : nghề đi nhủi tép.. Và trên bờ sông Long Hồ năm
nay ( 2007 ) tôi thấy vợ chồng một cậu thanh niên tên M. vừa cặp xuồng
vào bến, đem miệng nhủi còn dính đầy rong rêu phơi trên mái nhà lá đã
nhuộm màu thời gian bạc thếch.. Hỏi thăm thì té ra là con của Tư Te.
Ðời ông nội - nghèo! Ðời cha nghèo! Ðời cháu cũng nghèo! Khó 3 đời đó.
Cọng Sản đổi đời cho người giàu thành nghèo - không đổi đời cho người
nghèo thành giàu.Người nghèo vẫn tiếp tục nghèo.
Nói chung thì nông dân Việt Nam chiếm 85% dân số mà đất không đủ để
canh tác - còn công nghiệp không có khả năng biến nông dân thành thợ
thuyền..trong khi dân số lại gia tăng quá tải. Cho nên thất nghiệp
không thể tránh. Nghèo là hiện thực. Tiến sĩ Lê đăng Doanh trong một
bài phổ biến trên mạng, viết : "Nông dân đã nghèo, đất đã kém đi, nhưng
mỗi năm thêm 1 triệu miệng ăn, lấy đâu ra mà ăn. Lao động vất vả mỗi
ngày trên 8m2 đất thì lấy gì mà giàu có được? "
MIỀN NAM - 32 NĂM DƯỚI CHẾ ÐÔ C.S.
Kinh tế Việt Nam - trong đó có miền Nam - có chút tiến bộ - so từ thời
kỳ bao cấp đến thời kỳ mở cửa. Nhưng chỉ là tiến bộ với chính mình. Ðối
với các nước khác trong vùng thì còn lẹt đẹt.. cầm lồng đèn đỏ... Và
điều quan trọng là sự phát triển nầy có đem lại phúc lợi cho dân chúng
qua sự tái phân lợi tức quốc gia, để tài trợ các chương trình y tế,
giáo dục - các chương trình tạo công ăn việc làm, phát triển nông
nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở hay không? Hay là phát triển bằng những
con số báo cáo rỗng tuếch? Lợi tức tạo được đã bị cả hệ thống của những
con virus tham nhũng đục nát cơ thể.. Và hiện tại - muốn phát triển
công nghiệp - nhà cầm quyền địa phương - theo lệnh Ðảng - mở rộng khu
công nghiệp, khu du lịch, đã quy hoạch lấy đất, phá mồ phá mả, chiếm
nhà dân một cách bạo ngược.. Lòng dân phẫn uất, kêu la than khóc.. Oán
hận ngút trời xanh! ( 19 Tỉnh miền Nam biểu tình khiếu kiện trước trụ
sở quốc hội 2 Sàgòn ). Như vậy có gọi là phát triển không?
KẾT LUẬN
- 32 năm nhìn lại : Người ta thấy miền Bắc đã "giải phóng" dân Sàigòn
ra khỏi đất đai, nhà cửa của họ. Họ phải rút vô hẻm, ra ngoại ô hay về
quê bằng nhiều chánh sách khác nhau. "Giải phóng" miền ÐBSCL ra khỏi sự
trù phú do thiên nhiên ưu đãi từ nhiều thế kỷ."Giải phóng"quân nhân,
viên chức chế độ cũ ra khỏi nhà, để đưa họ vào các trại tù cải tạo hoặc
đẩy họ ra biển..."Giải phóng" phụ nữ miền Tây, để họ được tự do đi làm
"vợ nô lệ", đi làm điếm ở Kampuchia, TháiLan..
- 32 năm nhìn lại : Người ta thấy Việt Nam trở lại thời kỳ mua bán nô
lệ như thời Trung cổ. Phụ nữ Việt Nam bị bán đấu giá trên E-bay Taiwan
website(2003) - bị trưng bày trong lồng kính, cũng để bán đấu giá như
một con súc vật ở Singapour (2005). Chỉ trong năm 2005 - có khoản
400.000 phụ nữ và trẻ em bị bán ra ngoại quốc. (Theo UNI CEF - LHQ và
Bộ Tư Pháp Việt Nam )
- 32 năm nhìn lại : Mượn lời nhà báo Claude Allegre, báo L''expresse
ngày 29-8-2002: "Người ta không thể cho qua một cách im lặng những Khơ
me đỏ, những trại tập trung ở Cambodia và những cuộc tàn sát man rợ ở
đó. Và Việt Nam không được biết đến như là một chế độ nhân đạo hơn.
Dưới cái cớ là dân tộc can đảm nầy đã chiến thắng các siêu cường quốc -
người ta đi đến chỗ quên đi một nền độc tài đẫm máu đang thực thi trên
xứ sở đó "
- 32 năm nhìn lại : Miền Bắc XHCN rõ ràng đã thiết lập một nền đô hộ miền Nam - khắc nghiệt, tinh vi hơn cả thời Pháp thuộc.
Và điều quan trọng trên hết là Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất
nước. Một đảng viên kỳ cựu của chế độ Cộng sản lên tiếng cảnh cáo:
"Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Mất cả đất đai, sông núi
và dân tộc. Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh lẻ của Tàu".
Nguyễn văn Trấn