Vũ Quang Việt
Tại sao lại
đặt vấn đề lương
Không ai trong khu vực
nhà nước sống nổi bằng đồng
lương, nhưng người ta vẫn sống,
mà sống đàng hoàng. Câu nói
này nói lên tình trạng thiếu
lành mạnh của hệ thống nhà nước
Việt Nam hiện nay. Tại sao lại sống
được? Bởi vì để sống
được và để có thể lo
cho gia đình, kể cả tồn tại trong
công việc, người ta phải làm
những điều mà ở một xã hội
bình thường khác họ thường
sẽ cảm thấy xấu hổ. Nhưng xã
hội Việt Nam hơi thiếu bình thường,
bởi vì ở nước ta, tham nhũng không
chỉ mang tính cá nhân, mà còn
mang tính tập thể, mọi người cùng
làm, hoặc cùng làm ngơ vì ai
cũng có lợi trong đó; và hơn
thế, những hành động này nhiều
khi lại hợp pháp. Điển hình là
trường hợp Bộ Giáo dục và
Đào tạo và Bộ Tài chính,
nhằm tăng thu nhập cho giáo chức ở
trường công, đã cho phép nhà
trường thu thêm các loại phí,
cho phép thày cô giáo dạy thêm
lấy tiền, cho phép thày cô nhận
phong bì, cho phép Hội phụ huynh quyết
định thu thêm các loại đóng
góp cho trường mà Bộ coi là
đóng góp “tự nguyện” của
phụ huynh nằm ngoài sự kiểm soát
của Bộ mặc dù không đóng
không được. Và tất nhiên là
việc phân chia sẽ không đồng đều,
cấp trên tất nhiên nhận nhiều hơn
cấp dưới. Đây là những việc
hoàn toàn hợp pháp. Còn những
trường hợp chiếm dụng phần chi cho
vật chất và đầu tư xây dựng
để chia nhau là bất hợp pháp
nhưng thường lại được lãnh
đạo đồng ý tập thể. Sự
thiếu nghiêm chỉnh trong giáo dục ảnh
hưởng đến sự suy nghĩ của trẻ
em, mà khi lớn lên chúng có thể
coi những hành động tham nhũng là
điều tự nhiên, tự nhiên như
cần dầu bôi trơn cho máy nổ hoạt
động.
Mục tiêu phát
triển
Lương,
phần chính của thu nhập phải là
tiêu chí của phát triển. Bất cứ
một xã hội nào muốn phát triển
trong ổn định ít nhất cũng phải
đạt được năm tiêu chí:
một
là,
thu nhập tăng ổn định và phân
phối công bằng (công bằng chứ
không phải cào bằng), hai
là
luật pháp công minh (tức là công
bằng và nghiêm minh, không phân biệt
đối xử địa vị xã hội,
vai trò chính trị), ba
là
mọi người bình đẳng về cơ
hội, bốn
là
môi trường thiên nhiên trong sạch,
và năm
là
nâng cao dân trí qua việc xây dựng
một nền giáo dục có chất lượng. Tất nhiên, nhiều nước còn đặt
thêm các tiêu chí không thể
thiếu khác như dân chủ và tự
do. Tuy vậy, với tiêu chí số một,
ở Singapore, Lý Quang Diệu lại tập
trung vào điểm mấu chốt của mục
tiêu này là bảo đảm lương
bổng trong khu vực nhà nước không
những đủ sống mà phải cao hơn
khu vực tư nhân, để bảo đảm
công chức không tham nhũng và toàn
tâm làm nhiệm vụ phục vụ công
quyền. Tất nhiên không ai ngờ nghệch
cho rằng lương đủ sống sẽ bảo
đảm tính thanh liêm của công
chức, cán bộ làm cho nhà nước,
nhưng nó là điều kiện cần.
Trong năm tiêu chí
phát triển trên, chữ ổn định
hầu như nằm ở trong từng tiêu chí.
Nếu không có ổn định tất
nhiên không thể phát triển. Về
mặt kinh tế, chữ ổn định cũng
bao hàm: một là, lương được
trả đúng với sức mình bỏ
ra, ít nhất là bảo đảm khả
năng tái sản xuất sức lao động
một cách hợp pháp và hợp đạo
đức; hai là nền kinh tế có tăng
trưởng để ngày càng tạo
thêm công ăn việc làm cho lao động
chưa có việc làm và cho giới
trẻ mới gia nhập lực lượng lao
động, và ba là giá cả ổn
định để chúng không làm
giảm sức mua của thu nhập.
Mục tiêu phát
triển vừa qua là gì?
Nếu
chỉ xét về mặt kinh tế, thì mục
tiêu phát triển của Việt Nam nhằm
vào tốc độ tăng GDP là chính
chứ thực chất trong hành động
không nhằm vào mục tiêu ổn định
hay chất lượng.
Thiếu
mục tiêu ổn định đã phản
ánh rõ qua việc lạm phát, nguyên
nhân làm khốn khổ đời sống
nhân dân lao động, nhất là người
sống bằng đồng lương, và là
yếu tố cơ bản làm mất ổn
định xã hội đã không được
để ý đúng mức. Nhìn vào
ba nước đạt tốc độ tăng
GDP cao trong 5 năm 2003-2007 (coi bảng 1) là Trung
Quốc, Ấn Độ và Việt Nam thì
chỉ có Việt Nam là có lạm phát
cao trên dưới 8% suốt từ 2004 và
lại tăng vọt vào năm 2008, có
tháng vào đầu năm 2008 tính theo
mức tăng của năm lên đến 60%.
Thế nhưng quan chức nhà nước vẫn
kiên trì với tốc độ phát
triển từ 8,5 đến 9,0%, cho đến khi
chính sách của chính phủ bị Bộ
Chính trị đảo ngược với Kết
luận về chống làm phát
vào ngày 4/4/2008. Ngược lại, các
nước khác trong cùng khu vực như
Indonesia, Phi, Thái Lan khi thấy lạm phát
tăng (dù còn thấp hơn Việt Nam)
đã phải bằng mọi cách đưa
chúng xuống, ngay cả thời mà quan
chức nhà nước Việt Nam cho rằng
lạm phát là do yếu tố quốc tế
như giá dầu lửa và lúa gạo
tăng.
Bảng
1. Tích luỹ, tốc độ tăng GDP và
lạm phát ở một số nước
|
Tích lũy/GDP 2007
|
Tốc độ tăng GDP
trung bình 2003-2007
|
Lạm phát năm
2003, 2005 và 2007
|
Trung Quốc
|
44,2
|
10,7
|
1,2 / 1,8 / 4,8
|
Ân Độ
|
38,4
|
8,7
|
3,8 / 4,2 / 6,3
|
Việt Nam
|
41,7
|
8,0
|
3,2 / 8,4 / 8,3
|
Hồng Kông
|
21,3
|
6,0
|
-2,5 / 0,9/ 2,0
|
Đài Loan
|
21,2
|
4,8
|
-0,3 / 2,3/ 1,8
|
Mã Lai
|
21,9
|
5,9
|
1,2 / 3,1 /2,0
|
Indonesia
|
24,9
|
5,4
|
5,1 / 10,5 / 6,4
|
Thái Lan
|
26,8
|
5,5
|
1,8 / 4,5 / 2,3
|
Singapore
|
22,6
|
6,8
|
0,5 / 0,5 / 2,1
|
Phi
|
15,3
|
5,7
|
3,5 / 7,6 / 2,8
|
Nguồn: ADB, Key Indicators
2008,
Thiếu mục tiêu
chất lượng đã phản ánh rõ
về quyết định của chính phủ
Nhật tạm dừng ODA vừa qua, cũng như
hàng loạt các con sông bị ô
nhiễm nặng nề, cùng nạn kẹt xe ô
nhiễm trong thành phố hiện nay.
Tại sao lương
trong khu vực nhà nước ở Việt Nam
lại thấp?
Câu hỏi về
lương trong khu vực nhà nước ở
Việt Nam đòi hỏi ta nhìn nhận
lại chính sách tất cả vì đầu
tư hiện nay, dù là nhằm đạt
tốc độ tăng GDP cao, bất chấp môi
trường, sự ổn định đời
sống của dân chúng và nói
chung là chất lượng sản phẩm,
chất lượng phát triển. Hiện nay,
Việt Nam đầu tư tới 41,7% GDP, có
nghĩa là làm 100 đồng thì để
đến gần 42 đồng bỏ vào đầu
tư, vượt xa rất nhiều nước
khác trong khu vực và trên thế giới.
Đầu tư dù cao như vậy vẫn
không những đạt tốc độ đề
ra, mà lại còn đẩy nền kinh tế
tới chỗ khủng hoảng vì lạm phát.
Mà đầu tư lại tập trung vào
khu vực quốc doanh, chiếm tới 40% tổng
đầu tư của cả nước, nhưng
chỉ tạo ra khoảng 4 triệu việc làm,
bằng 18% việc làm cả nước. Đấy
là đã kể tới cả 2 triệu
lao động trong khu vực dịch vụ nhà
nước.
Bảng 2. Chi ngân
sách nhà nước năm 2007
Ngân sách 2007
|
Tỷ đồng
|
%GDP
|
% ngân sách
|
Tổng chi
|
341.418
|
29,8%
|
100%
|
Chi đầu tư
|
112.160
|
9,8%
|
33%
|
Chi thường xuyên
|
229.258
|
20,0%
|
67%
|
Nguồn: ADB, Bộ Tài
chính
Ngoài vốn từ
ngân sách, lại còn vốn vay mượn
nước ngoài mà nhà nước
cuối cùng phải chịu trách nhiệm
cũng là nhằm giúp hình thành
các tập đoàn quốc doanh. Vốn
vay này hiện nay không được ghi là
vốn vay của ngân sách. Nhưng nếu
chỉ nhìn vào ngân sách ta thấy,
chi ngân sách so với GDP ở Việt Nam là
30%, rất cao so với các nước trong khu
vực, cao gấp rưỡi Trung Quốc và
Thái Lan và gấp đôi Ấn Độ. Và hơn nữa trong ngân sách, chi cho
đầu tư lại cao gấp rưỡi, gấp
đôi các nước khác (coi bảng
3). Chính vì chi đầu tư quá cao
mà tỷ lệ chi lương cho cán bộ
công nhân viên nhà nước đâm
ra quá thấp. Và do lương quá
thấp, tỷ lệ đầu tư cao càng
làm tăng nguồn cho tham nhũng và sự
tàn phá môi trường.
Bảng 3. Ngân sách
nhà nước Việt Nam so với các
nước khác
|
Ngân sách/GDP
|
Đầu tư từ ngân sách/ngân sách
|
Việt Nam
|
30%
|
33%
|
Trung Quốc
|
19%
|
19%
|
Ấn Độ
|
15%
|
17%
|
Thái Lan
|
19%
|
19%
|
Indonesia
|
19%
|
8%
|
Mã Lai
|
25%
|
23%
|
Nguồn: ADB
Hiện trạng trả
lương trong khu vực nhà nước
Chi lương hiện
nay không nằm trong các tường trình
về ngân sách vì cũng như giáo
dục có lẽ không ai biết thực chi
cho lương là bao nhiêu. Tuy nhiên về
mặt thống kê có thể tính được
dựa vào thu nhập bình quân lao động
trong khu vực nhà nước do Tổng cục
Thống kê điều tra. Mà thu nhập
thường phải cao hơn lương và
thu nhập thêm chính thức vì còn
các khoản thu lãi tiền gửi ngân
hàng, thu do người khác chuyển nhượng. Thu nhập này được tính trong
bảng 4.
Bảng 4. Thu nhập
lao động nhận lương từ ngân
sách 2007
|
Lao động trong khu vực nhà nước
(nghìn người)
|
Thu nhập trung bình (người,
tháng, nghìn đồng)
|
Thu nhập theo khu vực, tỷ đồng
|
GDP tạo ra theo khu vực, tỷ đồng
|
Tỷ lệ thu nhập trên GDP tạo ra
|
Tỷ lệ GDP tạo ra trên tổng GDP
|
|
(1)
|
(2)
|
(3)
|
(4)
|
(5)
|
(6)
|
Khoa học kỹ thuật
|
27,7
|
2008,6
|
668
|
7063
|
9,5%
|
0,6%
|
Quản lý nhà nước, an ninh QP
|
482,1
|
1561,3
|
9032
|
31335
|
28,8%
|
2,7%
|
Giáo dục
|
1138,9
|
1832,9
|
25050
|
34821
|
71,9%
|
3,0%
|
Y tế
|
238,2
|
1899,6
|
5430
|
16151
|
33,6%
|
1,4%
|
Đảng đoàn thể
|
39,4
|
2098,4
|
992
|
1425
|
69,6%
|
0,1%
|
Văn hóa
|
111,9
|
1344,1
|
1805
|
5195
|
34,7%
|
0,5%
|
Tổng
|
2.038,2
|
|
42.977
|
95.990
|
44,8%
|
8,4%
|
Nguồn:
Tổng cục Thống kê. Chỉ tính lao
động không thuộc hoạt động
phi doanh nghiệp.
Dù
đã tính dôi thừa ra dựa trên
ý niệm thu nhập, thu nhập của nhân
viên nhà nước cũng chỉ bằng
có 3,8% GDP và bằng 13% chi ngân sách,
một tỷ lệ cực kỳ nhỏ bé
(coi bảng 5). Chi lương chắc còn nhỏ
hơn vì trong giáo dục, điều tra
thực địa cho thấy lương trung bình
chỉ có 1,4 triệu tháng tức là
bằng 70% thu nhập nhận được từ
hoạt động trong trường (Trần Hữu
Quang, Thời Đại mới, tháng 3 2008). Thu
nhập chính thức này vẫn chưa kể
thêm thu nhập thêm khác mà Tổng
cục Thống kê tính vào thu nhập
lao động. Nếu đi vào phân tích
chi tiết ở bảng 4, cột (5) ngoại trừ
chi cho giáo dục và Đảng và
đoàn thể, tỷ lệ chi lương rất
thấp so với tổng chi thương xuyên
(chi thường xuyên thường là gần
bằng GDP tạo ra trong các hoạt động
này).
Bảng
5. Chi lương từ ngân sách
|
GDP (tỷ đồng)
|
Tổng thu nhập (tỷ đồng)
|
Tỷ lệ trên GDP
|
Tỷ lệ trên ngân sách
|
2007
|
114.4015
|
42.977
|
3,8%
|
13%
|
Thử
nhìn một cách khác
Như
đã nói, ngân sách hiện nay ở
Việt Nam chiếm tới 30% GDP. Trong đó
phần trả lương cao lắm cũng chỉ
bằng 3,8% GDP. Trong ngân sách, phần đầu
tư chiếm tới 33% ngân sách và
bằng 9,8% GDP. Như vậy, nếu cho rằng
việc trả lương xứng đáng cho
lao động là đầu tư vào con
người nhằm tăng chất lượng
cuộc sống và giảm trừ tham nhũng
mà chuyển 9,8% GDP đầu tư trong ngân
sách này sang cho trả lương, ta thấy
là lương có thể bằng 3,5 lần
hiện nay. Tổng lương trả như thế
cũng chỉ bằng 154 ngàn tỷ, khoảng
9,6 tỷ USD. Ngay cả chỉ chuyển một nửa
để tỷ lệ đầu tư trong ngân
sách tương đương với các
nước khác thì lương cũng có
thể tăng hơn gấp đôi.
Tất
nhiên có người sẽ thấy vô
lý khi ngân sách chính phủ không
có khoản đầu tư cho hạ tầng
cơ sở. Câu trả lời có thể
hình dung được nếu như một
phần số tiền được doanh nghiệp
quốc doanh giữ lại đầu tư thiếu
hiệu quả hiện nay được chuyển
vào đầu tư cho hạ tầng cơ sở.
Hiện nay khu vực nhà nước đầu
tư lên tới 16% GDP. Mà đầu tư
từ ngân sách ở các nước
trung bình chỉ khoảng 4% GDP. Theo như nhiều
cáo buộc, cũng như điều tra thì
mức tham nhũng trong đầu tư lên tới
15%, tức là 15% của 16% GDP, hay là bằng
2,4% GDP, không xa số lương trả từ ngân sách.
Ngoài
ra, cũng nên xem xét lại tại sao chi
lương (ở mức cao nhất) hiện nay
cũng chỉ bằng 44,8% chi thường xuyên,
còn ở nhiều hoạt động thì
quá thấp (coi bảng 4). Vậy có thể
giảm chi cho vật chất để tăng cường
cho chi lương không?
Để
kết luận, câu hỏi đặt ra là
liệu nhà nước ta có sẵn sàng
có một cái nhìn khác hơn về
con người và về chất lượng
cuộc sống không khi nói đến phát
triển? Nếu câu trả lời là có
thì cần nhìn lại chiến lược
phát triển và chi tiêu ngân sách
hiện nay.
Vũ Quang Việt
|