Tôi
chưa quên những gì mà các ông thầy Mác - Lê, các ông thầy lịch sử Đảng
đã dạy dỗ tôi từ những năm tháng cắp sách đến trường. Phải nói là các
thầy triết học, các thầy chính trị, các thầy văn học ngày đó rất xuất
sắc trong việc phủ nhận, sự hiện diện của tôn giáo, của giáo quyền, của
thần quyền qua các học thuyết vô thần của Các Mác. Thế giới trong tôi
lúc đó chỉ là tồn tại vật chất, chẳng có ma tà thánh thần gì hết. Vì
sao tôi lại nhắc tới các ông thầy dạy văn học? Vì thời của tôi, văn học
là nhân học (Goocki). Các thầy dạy văn không chỉ là dạy văn mà còn là "Hành đạo làm người" chứ không phải là "Hành nghề"
một cách thuần tuý như những người dạy văn bây giờ. Những thầy dạy văn
ngày xưa, họ còn là các chính trị viên trên mặt trận văn hoá giáo dục
giành dật con người cho Đảng, và cho CNXH chứ không phải là những thợ
dạy luôn kè kè bên mình những tập văn mẫu cho học sinh phải nghĩ theo,
cảm theo, viết theo và làm theo như tình trạng dạy dỗ hiện nay. Đến khi
học về Lê nin, các thầy tôi rao giảng: Lê nin người thầy của giai cấp
vô sản toàn thế giới đã nói: "Tôn giáo là một thứ thuốc phiện!?".
Trí tuệ thơ ngây, trong trẻo ngày đó của chúng tôi lập tức được kích
hoạt những ngộ nhận thật đáng thương về câu nói này. Bạn tôi có đứa suy
diễn: Tôn giáo là thuốc phiện có nghĩa tôn giáo là một loại độc dược có
thể gây nghiện cho người dân. Có đứa cực đoan hơn lại có suy nghĩ rằng:
Người theo đạo, người có đức tin tôn giáo là người xấu, là kẻ có vấn đề
và rất cần phải cảnh giác. Riêng với tôi, có thể do thể trạng, thể chất
của tôi, có thể do hoàn cảnh sống, môi trường sống riêng mà tôi lại
nghĩ: Tôn giáo rất cần cho con người. Nếu không có đức tin tôn giáo,
trên con đường tiến hoá của mình, con người sẽ gặp phải nhiều đau đớn
về thể xác, về tinh thần lắm. Như vậy, ở đây chính niềm tin thần thánh
(tôn giáo) là phương cách để cứu rỗi, là hành trang tinh thần của con
người trong cuộc đối diện với bao bất chắc luôn chờ đón rình rập.
Tôi
sớm có những suy nghĩ như vậy cũng là nhờ ngày thơ ấu khi tôi hành sử 1
cách bản năng thô bạo với các thú nuôi trong nhà, mẹ tôi một phật tử
tại gia lại nhắc nhở về sự hiện diện của "Quỷ thần hai vai"
luôn chứng giám các hành vi, các ứng xử của mỗi người. Mẹ tôi thường
nói đến hoả ngục A tì, nói đến vạc dầu sôi của Diêm vương, nói về Quỷ
sa tăng tra khảo những vong hồn tội lỗi ở kiếp trần gian… Giờ đây các
con tôi, các cháu tôi, nhiều thế hệ học sinh của tôi đặc biệt là những
lứa sau này, họ đều ngơ ngác và cười cợt những lời khuyên tương tự như
lời mẹ tôi đã khuyên dạy chúng tôi ngày nào. Tôi nghĩ rằng, khó có thể
trách được họ. Cuộc sống hiện đại ngày nay khác cuộc sống ngày nào của
chúng tôi lắm. Con người hôm nay như bị cuốn vào một guồng quay, một
dòng chảy có gia tốc lớn quá. Người ta nhiều lúc chẳng kịp nhận ra
chính mình giữa một dòng đời đầy hối thúc và cám dỗ thì còn đâu thời
gian để mà nghĩ đến "Quỷ thần hai vai",nghĩ đến ân oán
nơi hoả ngục! Như vậy, chẳng có gì là sai khi nói chính tôn giáo với
những đức tin thần thánh đã hướng con người tới những giá trị Chân - Thiện - Mỹ mà
người có đức tin sẽ sống bớt man rợ hơn, bớt phạm sai lầm hơn, bớt trả
giá và bớt đau khổ hơn. Nếu có điều kiện làm một trắc nghiệm công phu
trong các nhà tù nơi giam giữ những kẻ tội lỗi, tôi nghĩ rằng tỷ lệ
người có tôn giáo, có đức tin luôn luôn là thấp.
Gần
đây, trong các văn bản pháp lý có tính chính thống của Nhà nước CHXHCN
Việt Nam, của nhiều chính giới nước ngoài, đặc biệt là của Bộ Ngoại
giao Hoa Kỳ người ta đều khẳng định về những tiến bộ về tôn giáo ở Việt
Nam. Điều này theo tôi là chính xác. Nếu quan sát kỹ lưỡng cả một tiến
trình lịch sử từ khi có tôn giáo xuất hiện ở Việt Nam đặc biệt rõ với
Thiên chúa giáo từ khi không dưới 30 vạn tín đồ phải tử vì đạo do chính
sách bài Giatô của Tự Đức cho đến thời kỳ tôn giáo Mác - Lê - Mao tràn
vào Việt Nam với các học thuyết vô thần của họ đã đẩy tất cả các tôn
giáo vào một cái rọ duy tâm đáng nguyền rủa và đương nhiên rất nhiều
đình, chùa, miếu mạo, thánh thất, nhà thờ đã trở thành trụ sở làm việc
của UB, thành lớp học, thành nhà kho, thậm chí thành trại chăn nuôi.
Tượng phật, tượng chúa bị đập phá, báng bổ và trôi sông. Người có đức
tin bị mạ lị, bị phân biệt đối xử… đến nay từ những gì chúng ta đang
quan sát thấy mà lại không cảm nhận được là đã có những tiến bộ thì đó
là thái độ thiếu công bằng.
Nếu
chỉ căn cứ vào những dấu hiệu có tính hình thức như giáo dân hành lễ
ngày càng đông, các ngày lễ trọng của các tôn giáo như Nôen, phật đản,
các hội hè truyền thống mang tính tâm linh của một cư dân lúa nước, cư
dân nông nghiệp được tổ chức rất trọng thể và sự xuất hiện thường xuyên
của những ĐBQH, các uỷ viên của MTTQ các cấp trong bộ cà sa màu vàng
của phật giáo hay bộ trùng thâm của thiên chúa giáo đang trang trí cho
các diễn đàn, các hội nghị mà nói rằng tự do tôn giáo ở Việt Nam có
nhiều tiến bộ, nói thế tuy là đúng xong mới đúng ở 1/2 của những gì mà
mọi người nhìn thấy. Vẫn còn đó 1/2 sự thật nữa còn bỏ ngỏ! Vậy 1/2 đó
là sự thật gì? Đây là điều mà tôi hằng trăn trở và muốn luận bàn trong
ghi chép này.
* * *
Tôi
nghĩ rằng, chúng ta phải phân định rạch ròi hai vấn đề: Tự do tôn giáo
và trách nhiệm của Nhà nước đối với tôn giáo. Nhà nước có trách nhiệm
đối với tôn giáo chẳng khác gì Nhà nước có trách nhiệm với sự chấn hưng
giáo dục, chấn hưng kinh tế. Rõ ràng là Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã có
nhiều trách nhiệm hơn, có nhiều tiến bộ hơn về những việc này. Đây là
một sự thật không thể phủ nhận. Nhưng có điều cũng rất đáng phải làm rõ
là việc thực thi trách nhiệm khác xa với thực thi quyền tự do. Có thể
nói không hề sai, tự do tôn giáo ở Việt Nam mới đạt được ở mức là tự do
trong khuôn khổ của Nhà nước qui định. Thử hỏi tự do mà lại phải đặt
trong khuôn khổ thì còn lại được bao nhiêu là tự do nữa. Trước khi vào
vấn đề này, hãy thử nhìn vào mấy quyền tự do cơ bản khác mà nhiều thập
kỉ rồi người dân đòi hỏi đã được Nhà nước đáp ứng đâu!
Một chút về tự do sáng tác:
Các
văn nghệ sĩ hết sức bất bình trước qui định của Đảng: Văn hoá văn nghệ
- văn học nghệ thuật phải phục vụ chính trị, phải có Đảng tính! Sau năm
1954, các văn nghệ sĩ rầm rộ đòi hỏi quyền tự do sáng tác. Đáp trả lại
là vụ án xét xử bọn phản động trong nhóm nhân văn giai phẩm. Người đòi
tự do sáng tác tuy đầu không rơi, máu không chảy những chết vô khối
đấy. Có cái chết về thân xác, có người tuy không chết về thân xác thì
cũng chết mỏi mòn vì cô đơn, vô vọng trong lao tù, trong phân biệt đối
xử, trong tình trạng "Giấy bút của tôi bị người ta giằng mất!?"
(Phùng Quán). Thật đáng buồn thay về cơ bản văn nghệ sĩ đã từng phải
chấp nhận cúi đầu làm những kẻ minh hoạ xoàng xĩnh cho chính trị. Cuối
cùng đến 1987 vì thời thế Đảng bất ngờ cởi trói cho văn nghệ sĩ. Như
thế thử hỏi văn nghệ sĩ đã từng bị "Trói gô" thì còn đâu
là tự do để sáng tác ra những kiệt tác xứng tầm thời đại, xứng tầm dân
tộc. Chẳng trách nhà văn Nguyễn Khải một quan chức văn học, ĐBQH nhiều
nhiệm kỳ trước phút lâm trung đã để lại những dòng chữ thật đớn đau:
"Tôi
cũng được giải thưởng văn chương cao nhất cấp quốc gia, nhưng tôi biết
chỉ mươi năm nữa, thời thế đổi thay chắc chẳng ai còn nhớ đến mình nữa.
Tôi là nhà văn của một thời, thời hết thì văn chương phải chết. Tuyển
tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân" (Đi tìm cái tôi đã mất- Nguyễn Khải). Bức tranh về tự do sáng tác cuối cùng lại là những dòng đau xót đến như vậy đấy.
Một chút về tự do ngôn luận và báo chí:
Không
nói gì xa xôi, sau cú phản đòn PMU 18 được khởi động, khi ông lớn Bùi
Tiến Dũng cùng đồng bọn thoát khỏi khung tham nhũng chỉ còn là những gã
đánh bạc và thích sống thác loạn, sau khi ông lớn Nguyễn Việt Tiến sang
trọng trong bộ comple đắt tiền bước lên xe hơi tiền tỷ lăn bánh ra khỏi
nhà tù và nhanh chóng nhận lại thẻ đảng lại còn khụng khiệng đòi trả
lại toàn bộ các chức danh!... thì sao quả tạ ập tới các nhà báo, các
anh hùng chống tham nhũng. Nguyễn Việt Chiến báo Thanh Niên, Nguyễn Văn
Hải báo Tuổi Trẻ lập tức xộ khám cùng lúc không dưới 7 ký giả khác bị
tước thẻ hành nghề, nhiều tổng biên tập, phó tổng biên tập bị huyền
chức, cách chức, người thì bị cảnh cáo như một anh binh nhì ngờ nghệch
và dại dột (Tướng Phạm Xuân Quắc), người thì vào ngục thất như một gã
tội phạm tầm thường (Thượng tá. Đinh Văn Huynh)… Tất cả cũng chỉ vì đã
chót "Sớ rớ" vào những vụ việc chống tham nhũng ở cấp
chóp bu. Khi vụ bắt giam vừa xảy ra, đọc những dòng tít cỡ lớn trên 2
tờ Thanh Niên và Tuổi Trẻ như: Phải trả tự do ngay cho những người vừa bị bắt giữ! Tôi
cứ tưởng mình đang ngồi đọc báo dưới tượng thần tự do ở Mỹ quốc, hay
lững thững thả bộ ở OasintonDC. Thật buồn chẳng lâu la gì ban tuyên
giáo TW đã thổi còi với Chỉ thị: Báo chí phải đi đúng lề đường bên phải. Tức
là nhà báo phải nhớ rằng các anh chỉ có mỗi một nhiệm vụ phục vụ Đảng,
các anh là công cụ của chính quyền. Cũng thật đáng buồn hầu như toàn bộ
giới cầm bút đã câm nín tức thì. Thật đúng là cảnh:
"Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Văn chương liều lĩnh đấm ăn sôi"
Dạ thưa chính cái mặt bằng tự do báo chí của chúng ta ở mức độ này nên chẳng ai còn có thể "Húng hắng" gì được nữa khi thế giới người ta xếp hoạt động báo chí, tự do báo chí của Việt Nam nằm ở tốp đội sổ về Đệ tứ quyền (thứ 169/173 tức là chỉ có trên được Congo, Camerun, Cu Ba và Myanma).
Một chút về tự do biểu tình:
Rõ
ràng điều 69 đã qui định công dân Việt Nam có quyền biểu tình đấy nhưng
nhớ là phải theo đúng qui định của Nhà nước. Biết rõ là như vậy ba
chiến sĩ dân chủ ở Hải Phòng gồm Cựu chiến binh Vũ Cao Quận, Nhà văn
Nguyễn Xuân Nghĩa, nữ thanh niên Phạm Thanh Nghiên đã làm đơn xin UBND
Hà Nội cho phép tổ chức một cuộc biểu tình ôn hoà nội dung chống tham
nhũng, chống lạm phát và tăng giá. Nhà nước đã từ chối và không đưa ra
một qui định nào. Ba chiến sĩ dân chủ làm đơn kiện UBND Hà Nội. Toà án
cũng chối bỏ trách nhiệm phân xử. Một thời gian sau nhà văn Nguyễn Xuân
Nghĩa bị tống giam ở B14, cháu Phạm Thanh Nghiên sau những ngày toạ
kháng tại gia dưới 2 khẩu hiệu: "Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam" và "Phản đối công hàm 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng" đã bị bắt giam tại đề lao Hải Phòng. Cựu chiến binh Vũ Cao Quận vì bất đắc chí mà đột ngột ngã bệnh và đang được công an "Săn sóc" tại gia. Thế là: "Chút lòng khao khát… từ nay xin chừa".
Như vậy là tự do mà lại phải theo qui định là thứ tự do đồng nghĩa với số không tròn trĩnh.
Một chút về tự do tôn giáo:
Trước
hết xin đặt ra một câu hỏi: Tự do tôn giáo là gì? Để tránh cái gọi là
tự do vô chính phủ, quyền tự do nào cũng phải tuân thủ và tôn trọng
những chuẩn mực đã ghi trong hiến pháp và pháp luật. Ở Việt Nam, người
ta le lói nó ở cụm từ: Theo đúng qui định của Nhà nước. Vấn đề ở đây là
qui định của Nhà nước có hợp với những chuẩn mực của thế giới văn minh
không? Theo tôi tự do tôn giáo mà phải theo qui định như ở Việt Nam
hiện nay thì sớm muộn lại quay về điểm xuất phát thôi. Điểm xuất phát
đó là chẳng có gì, nếu có chút nào thì cũng là thứ tự do trong khuôn
khổ nhất định. Một xã hội gọi là có tự do tôn giáo là xã hội biết tôn
trọng các hoạt động thuần tính tôn giáo và phải coi tôn giáo là một
thành phần không thể thiếu góp phần cấu thành nên đời sống tinh thần
của cả dân tộc. Ngược lại về phía tôn giáo cũng phải biết tự chế theo
các qui định của giáo luật, theo các qui định của hiến pháp của dân -
do dân - vì dân chứ không phải kiểu qui định văn hoá văn nghệ phải phục
vụ chính trị và báo chí phải đi đúng lề đường bên phải. Người có tôn
giáo cũng như người không có tôn giáo đều phải biết kiểm soát hành vi
của mình theo kiểu "Tôi có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm và tôi không làm những gì mà pháp luật đã cấm".
Tự
do tôn giáo còn thể hiện ở sự đảm bảo những quyền lợi của tôn giáo
trong một đời sống thế tục. Trước khi được hưởng thụ những quyền về tự
do tôn giáo, người có tôn giáo phải được hưởng đầy đủ những quyền đã
qui định trong tuyên ngôn nhân quyền liên hiệp quốc, đã qui định trong
các điều luật của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam.
Trên đây chỉ là những lập lý mang tính lý thuyết mà:
"Mọi lý thuyết đều là màu xám
Còn cây đời là mãi mãi xanh tươi" (Gớt)
Chúng ta cùng thử xem cây đời tự do tôn giáo ở Việt Nam qua một số hiện tượng gần đây.
Có
thể gọi là có tự do tôn giáo được không khi các Hoà thượng và các Tăng
sĩ của giáo hội PGVNTN thực thi Đức từ bi, thực thi Hạnh bố thí theo
lời dạy của Đức phật trong việc cứu trợ dân oan mất đất, mất nhà vô lý
đang gặp phải bao khốn khó trên con đường đấu tranh đòi công bằng…lại
bị chính quyền và truyền thông kết tội phạm pháp và kích động dân oan!
Thật khó mà chấp nhận được một xã hội dân sự, một xã hội công dân mà
hành vi "Lá lành đùm lá rách", "Lá rách đùm lá nát"
là độc quyền của Nhà nước! Các cá nhân, các tổ chức tôn giáo xin hãy vô
cảm đứng ngoài. Nếu có động lòng trắc ẩn xin phải nhờ cậy qua cơ quan
mặt trận.
Có
thể gọi là có tự do tôn giáo được không khi nhìn vào những hiện thực u
buồn đã từng diễn ra ở Toà khâm sứ cũ 42 Nhà Chung Hà Nội và giáo sứ
Thái Hà những ngày vừa qua:
Nghĩ
gì đây khi giáo dân tập trung cầu nguyện một cách ôn hoà ở những địa
điểm còn tranh chấp đã bị chính quyền và truyền thông kết tội là tụ tập
đông người gây mất trật tự công cộng! Khắc phục hiện tượng này không
phải là đối thoại mà lại là CSCĐ, CS 113, là an ninh chính trị, là các
hội đoàn quần chúng, là thanh niên tình nguyện thật - dởm, là dùi cui
điện, là lựu đạn cay, là các loại chó nghiệp vụ và con cháu giáo dân bị
thầy cô giáo đánh dấu vào sổ để theo dõi!
Nghĩ
gì đây khi truyền thông báo chí vì quá say đòn, quá hăng máu, quá mẫn
cán với công vụ mà quên cả liêm xỉ và tự trọng để cắt trích câu nói của
Đức Tổng giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt chỉ để bảo đảm toàn thắng cho
quyết tâm hạ gục các linh mục và giáo dân ở hai vùng đất tranh chấp
này. Trong khi đó trước, trong và sau biến cố đất cát… những gì diễn ra
cho mọi người thấy vị linh mục đó cũng không hề thua kém ai về lòng yêu
nước, về trách nhiệm với giáo dân, trách nhiệm với giáo xứ.
Nghĩ
gì đây khi mà 2 vùng đất tranh chấp đã trở thành 2 công viên cây xanh
cho toàn dân thụ hưởng thì UBND Hà Nội họp báo quốc tế với những lời
kết tội gay gắt giành cho các linh mục và giáo dân còn đức cha giám mục
bị ghét bỏ tới mức "Xúc đất đổ đi" khi người ta ra lời
kêu gọi đòi trục xuất ông ra khỏi lãnh địa Hà Nội. Chủ tịch thành phố
đã hành xử như vậy, mọi người thật sự bất ngờ khi Thủ tướng vì một "Từ lực" nào đó cũng chẳng giám ứng xử khác đi một chút nào!
Nhân
dân Việt Nam chưa quên ngày nào Thủ tướng hết sức bình tĩnh và oai vệ
đứng bên Đức tổng giám mục Hà Nội cùng với giáo dân ở 42 Nhà Chung và
ông đã hứa sẽ xem xét nguyện vọng của mọi người, chưa quên ngày nào ông
hết sức lịch lãm trước Đức giáo hoàng lần ông viếng thăm Vatican. Tôi
cảm thấy nhà lãnh đạo quốc gia có những dầy vò, trăn trở về những tồn
tại đất đai có nguồn gốc lịch sử, nhưng ông cũng không đủ sức để vượt
ra khỏi cái vế đối cũng chỉ ở bậc Cao đẳng mà Ngô Thì Nhậm đã mang ra
để thanh minh cho việc ông ta bỏ nhà Lê để phò Tây Sơn ngày Nguyễn Ánh
lấy lại được Thăng Long:
"Thế chiến quốc, thế Xuân Thu
Tuỳ thời thế thế thời phải thế"
Nếu
sự thật là như vậy, hoá ra ngay cả Thủ tướng cũng chưa từng được nếm
cái vị ngọt ngào của hai chữ Tự Do. Thủ tướng còn phải "Đi theo lề đường bên phải!" thì thử hỏi giáo dân, dân oan, thảo dân, tiện dân, phó thường dân… làm sao mà được hưởng "Tự do hai tiếng ngọt ngào".
Gần
đây tôi thấy chính quyền rất dị ứng với các hoạt động tôn giáo ở ngoài
các linh địa thuộc về tôn giáo. Ví dụ: Các hoạt động cứu trợ dân oan
của các Hoà thượng Thích Quảng Độ, Hoà thượng Thích Không Tánh cùng các
Tăng sĩ GHPGVNTN, các hoạt động thăm hỏi giáo dân ở các linh địa tôn
giáo còn tranh chấp. Thực ra không phải chỉ là dị ứng, các hoạt động
cứu trợ nhân đạo thuần tính tôn giáo đó đã bị chụp mũ, bị kết tội rất
thô bạo là: Đã có những hoạt động tôn giáo không đúng nơi qui định.
Thậm chí còn bị hàm oan là có những tham vọng chính trị, là cơ hội, là
kích động dân oan, kích động giáo dân đấu tranh với chính quyền.
Vậy
sẽ giải thích thế nào về chuyện hoá thân vì đạo pháp giữa đường phố Sài
Gòn (năm 1963) của cố Hoà thượng Thích Quảng Đức để phản đối chế độ gia
đình trị Ngô Đình Diệm. Hành vi tôn giáo đó rất dữ dội và quyết liệt
đâu có diễn ra trong khuôn viên nhà chùa. Tại sao không hề thấy chế độ
chính trị nào ngày đó cả miền Bắc cả miền Nam lên án đó là hoạt động
tôn giáo không đúng nơi qui định. Hành động tử vì đạo pháp của Hoà
thượng Thích Quảng Đức đã góp phần làm sụp đổ chế độ Ngô Đình Diệm lại
không phải là tấm gương ngời sáng biểu trưng cho con đường dấn thân
nhập thế, con đường tôn giáo đồng hành cùng dân tộc hay sao.
Gần
đây tôi thấy người ta rất muốn tôn giáo đứng ngoài các bức xúc đời
thường. Họ chỉ muốn tất cả các tôn giáo có mặt ở Việt Nam như Phật
Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hoà Hảo,… phải cùng đắp chung
chiếc chiếu yếm thế, xa rời đời sống thế tục. Vậy chúng ta nghĩ gì về
lời dạy của Đức phật:
"Muốn trồng cây Bồ Đề
Hãy năng nhặt loài cỏ dại"
Nói:
Tôn Giáo là phải đứng ngoài những chuyện thế thái nhân tình là làm méo
mó con đường Bồ Đề, con đường Thánh Giá. Tôi nghĩ rằng nội dung của Thư
chung "Sống phúc âm trong lòng dân tộc" đã bị hiểu sai,
giải thích sai và vận dụng rất lệch lạc bởi những cái đầu có não trạng
không ổn. Sống phúc âm không là sống ù lì, sống yếm thế, sống thụ động,
sống vô cảm, sống vô trách nhiệm trước nỗi đau chung của dân tộc. Chính
vì vậy có thể nói rằng, quan hệ giữa tôn giáo và chính quyền bấy lâu
nay luôn tồn tại những bất ổn theo kiểu "Đồng sàng - dị mộng". Nói rằng: Tự do tôn giáo ở Việt Nam đã có nhiều tiến bộ là rất đúng, song mới đúng được 1/2 sự thật.
* * *
Tôi
viết những dòng cuối cùng của ghi chép này vào lúc Đức tổng Giám mục Hà
Nội Ngô Quang Kiệt sau những ngày ông lội nước đi thăm hỏi dân chúng
vùng lụt lội, Ông đã gửi lên mạng thông tin toàn cầu lời kêu gọi tương
thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau trong hoạn nạn vì lụt lội giữa lòng Hà
Nội. Không biết chính quyền và truyền thông một chiều bên phải có kết
tội Ông là hành đạo không đúng nơi qui định nữa không? Cũng lúc này,
ngài UVBCT, bí thư thành uỷ Hà Nội, tiến sĩ Phạm Quang Nghị còn đang
bận gửi lời xin lỗi nhân dân vì những phát ngôn quá vội vã và có phần
bất nhẫn của Ông.
Xung
quanh vấn đề tôn giáo, tôi chưa thể quên những gì mà Nguyễn Ái Quốc đã
từng viết khi ông còn đứng vững trên mảnh đất của Chủ nghĩa yêu nước
thuần tuý. Khi đó, ông đã từng bộc bạch đại ý: "Thích ca mâu ni,
Giêsu, Khổng Tử, Tôn Dật Tiên là các bậc chí thánh. Các vị đó cả đời
phấn đấu để mang lại cuộc sống hạnh phúc an hoà, công bằng và yêu
thương cho nhân loại. Tôi xin nhận làm học trò nhỏ của các vị".
Khi Nguyễn Ái Quốc chính thức trở thành người của Quốc tế Cộng sản, đặc
biệt từ khi ông du nhập Học thuyết Mác - Lê vào Việt Nam, người ta
không còn thấy ông và những người Mác xít Việt Nam nhắc lại những lời
thể tình thật khiêm nhường và chí lý đó nữa.
Hôm
nay khi những gì mà tôi nghĩ rất không bình thường đang như một áp lực
rất xấu tác động tới đời sống đương đại của chúng ta như: Một nền kinh
tế phát triển ở tốp cuối cùng của khu vực và thế giới, một nền tảng đạo
đức xã hội đang có nhiều băng hoại, một môi trường sống ngày càng xuống
cấp về mọi mặt, một tình trạng tham nhũng tràn lan đến báo động, một
lãnh thổ đang bị ngoại bang gặm nhấm và một niềm tin vào con đường mà
Đảng Cộng sản lựa chọn đã lung lay… để cứu vãn người ta đã đặt cọc vào
những cuộc thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tôi đã thấy
những giọt nước mắt của người kể chuyện và cả người nghe chuyện. Tôi đã
thấy những nụ cười rạng rỡ của người thắng và cả kẻ thua trong các cuộc
sinh hoạt chính trị tư tưởng đặc biệt này. Tôi đã được nghe những lời
chúc tụng, những lời động viên biểu dương nhau của các "Nghệ sĩ"
phải nói là siêu hạng về kỹ thuật trình diễn, kỹ sảo thể hiện, về các
độc chiêu chỉ cần những chuyện hết sức dông dài đời thường họ vẫn có
thể làm rúng động lòng người. Người ta muốn kiếm tìm sự giải thoát hiện
hữu nhờ hình bóng và hơi hướng của một con người cũng rất trần gian và
thế tục đã đi xa. Nhưng than ôi! Chúng tôi chưa quên những sinh hoạt tư
tưởng tương tự như thế này đã từng diễn ra trong quá khứ, khi cả nước
rỉnh rảng chuyện đón rước và diễu hành đuốc lửa Hồ Chí Minh. Vậy mà cả
nước vẫn cứ đắm chìm mãi vào suy thoái và khủng hoảng cho dù "Đổi mới hay là chết" đã được phát động từ hơn hai mươi năm có lẻ rồi. Phải chăng các tư tưởng gia, các nhà tổ chức, các "nghệ sĩ"
của chúng ta đã không thành tâm mà trình diễn, đã không thành kính mà
đưa rước đuốc lửa được châm từ bàn thờ dòng họ Nguyễn Sinh… ở làng Sen!
Phải chăng người ta chỉ muốn các thần dân học tập tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh thôi còn họ có quyền dửng dưng, cười khẩy và làm ngược lại.
Hôm
nay, sau những gì đã xảy ra với GHPGVNTN, với Toà khâm sứ cũ 42 Nhà
Chung và Giáo xứ Thái Hà Hà Nội không biết ở thế giới bên kia cụ Hồ Chí
Minh đã nói gì với cụ Các Mác và cụ Lê nin về những hậu duệ của mình đã
hành xử với tôn giáo lúc này 2008 mà y trang kịch bản của chuyên chính
vô sản, của bạo lực cách mạng, của đấu tranh giai cấp! Tôi tin rằng sẽ
đến lúc cụ Hồ Chí Minh sẽ gặp và thể tình tất cả với Thích Ca Mâu ni,
với Giêsu, với Khổng Tử, với Tôn Dật Tiên những bậc chí thánh mà ông đã
từng tôn vinh là những bậc thầy khi ông là người Việt Nam yêu nước nồng
nhiệt.
Nếu
điều đó xảy ra, chắc chắn mọi người sẽ được nghe những lời cứu rỗi, sẽ
được nhận ơn Từ Bi là vô lượng, Hỉ sả là vô biên của Đức Phật, sẽ được
nghe lời của Thiên Chúa "…đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn u sầu"
(Kinh Hoà Bình - Thánh Phanxico), sẽ được thụ giáo những bài học làm
người của Đức Khổng Tử, sẽ được giáo hoá bởi Chủ nghĩa Tam Dân (Dân
sinh - Dân chủ - Dân quyền) của lãnh tụ Tôn Dật Tiên. Với những gì đã
diễn ra không biết câu chuyện về tự do tôn giáo ở Việt Nam đến bao giờ
mới thực sự là một sự thật mà tất cả mọi người Việt Nam ở trong nước
cũng như ở ngoài nước đang chờ mong. Một sự thật tiến bộ đặng góp phần
cho Tổ quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam thực sự cất cánh.
Thành phố Hà Đông ngày hiến chương các nhà giáo 20-11-2008.
Nguyễn Thượng Long
- Nguyên giáo viên địa lý thuộc GDĐT Hoà Bình và Hà Tây
- Nguyên Thanh tra GD Sở GDĐT Hà Tây (cũ)
- Chỗ ở: Thôn Văn La - phường Phú La - TP.Hà Đông- HN
- ĐTNR: 04.33 521.066
- DĐ: 095.3298.198
Email: NGUYEN THUONG LONG 571@ gmail.com
|