Tạ Phong Tần
January 01, 2009 Kế
thừa truyền thống và tinh thần hài hước của người Việt, như kế hoạch đã
thông báo trên blast, năm 2009 CL&ST không viết “ngay băng” những
chuyện báo Nhà nước không dám đăng (dù nó có thiệt chăm phần chăm) mà
sẽ chuyển sang viết “chiện dzui” theo cách viết của các cụ Vũ Trọng
Phụng, Nguyễn Công Hoan. Nếu
bên truyền hình có gams show “Vượt Lên Chính Mình” được khán giả nồng
nhiệt tán thưởng thì blog Công Lý và Sự Thật đúng ngày 01/01/2009 năm
mới cũng có show hài “Đứng Trên Pháp Luật” do Bộ Thông tin - Truyền
thông trình diễn, đạo diễn được ủy quyền công khai là quý Ngài Thứ
trưởng Đỗ Quý Doãn (nhân dạng của Ngài có phần giống đến
95% một nhân vật trong tiểu thuyết của cụ Nguyễn Công Hoan. Tôi thật
bái phục cụ Nguyễn có con mắt như thần, nhìn suốt không gian và thời
gian, thấy trước cả quá khứ, tương lai). Tác phẩm “ĐẺ NGƯỢC” trình làng với tên gọi đầy đủ là: Thông tư số 07/2008/TT-BTTTT ngày 18/12/2008 “Hướng dẫn một số nội dung về hoạt
động cung cấp thông tin trên trang thông tin điện tử cá nhân trong Nghị
định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 08 năm 2008 của Chính phủ về quản
lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên
Internet”. (Sau đây xin gọi tắt là TT 07). . I- QUY TRÌNH ĐẺ XUÔI Trước
khi chứng minh cho bạn đọc thấy cái TT 07 kia là “tác phẩm hài”, tôi
nhất thiết phải trình bày cho bạn đọc biết phân biệt với tác phẩm “Đẻ
xuôi” được viết bằng thủ pháp “chính kịch” thì phải theo những nguyên
tắc như sau: Vài nguyên tắc cơ bản khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật: (Trích
từ Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1997 và Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi bổ sung năm 2002) - Khái niệm:
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử
sự chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: 1- Văn bản do Quốc hội ban hành: Hiến pháp, luật, nghị quyết ; Văn bản do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành: pháp lệnh, nghị quyết; 2- Văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ở trung ương ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội: a) Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; b) Nghị quyết, nghị định của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; c) Quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ; d)
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; quyết định,
chỉ thị, thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đ)
Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội; 3-
Văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành để thi hành văn
bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và văn
bản của cơ quan nhà nước cấp trên; văn bản do Uỷ ban nhân dân ban hành
còn để thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp: a) Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; b) Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân. (Điều 1) - Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật: Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất, thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật. Văn
bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải
phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên. Văn
bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, trái với văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, đình
chỉ việc thi hành. (Điều 2) - Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật: Văn bản quy phạm pháp luật quy định hiệu lực về thời gian, không gian và đối tượng áp dụng. (Điều 4) °
Hiệu lực về thời gian: Văn bản quy phạm pháp luật phải quy định rõ thời
gian ban hành, thời gian văn bản có hiệu lực thi hành. Luật pháp Việt
Nam được áp dụng nguyên tắc “luật bất hồi tố”, tức những sự việc đã xảy
ra trước khi ban hành quy định cấm thì không bị truy cứu trách nhiệm,
luật chỉ hồi tố khi việc hồi tố có lợi cho người dân, bất lợi thì không
hồi tố. Ví dụ: Điều 7 Bộ Luật Hình Sự. °
Hiệu lực về không gian: Văn bản quy phạm pháp luật phải quy định rõ
không gian áp dụng như: lãnh thổ, lãnh hải, không phận thuộc chủ quyền
nước Việt Nam, người nước ngoài phạm tội trên phạm vi nước Việt Nam thì
áp dụng luật nào, v.v… °
Đối tượng áp dụng: là đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của văn
bản quy phạm pháp luật đó, cụ thể: công dân nước nào, độ tuổi bị điều
chỉnh, năng lực pháp luật… Ví dụ: Điều 12 Bộ Luật Hình sự. - Ngôn ngữ của văn bản quy phạm pháp luật Văn bản quy phạm pháp luật được thể hiện bằng tiếng Việt. Ngôn
ngữ sử dụng trong văn bản phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải
đơn giản, dễ hiểu. Đối với thuật ngữ chuyên môn cần xác định rõ nội
dung, thì phải được định nghĩa trong văn bản. (Điều 5) Nghĩa
là ngôn ngữ sử dụng trong soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải là
đơn ngữ, trực tiếp, tức đọc lên ai cũng hiểu theo 1 nghĩa thống nhất
chớ không thể suy diễn theo nhiều cách trái ngược nhau, không được sử
dụng cách viết bóng gió, hiểu ngầm, ám chỉ. Đối với những thuật ngữ,
vấn đề mới chưa được quy định trong các văn bản pháp luật đã có thì văn
bản mới ban hành muốn sử dụng phải có định nghĩa, giải thích rõ thuật
ngữ ấy. - Thông tư là để hướng dẫn: Thông
tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ được ban hành để hướng dẫn thực hiện những quy định được
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị quyết, nghị định
của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ giao thuộc phạm vi quản lý ngành, lĩnh vực do mình phụ trách. (Khoản 3 Điều 58) Nhiệm
vụ của Thông tư là hướng dẫn, giải thích, làm rõ thêm chi tiết những
vấn đề được quy định tại Luật, Nghị Quyết, Pháp Lệnh, Quyết định… Cơ
quan ban hành Thông tư không được tự mình ban hành thêm quy định mới
không có trong nội dung văn bản mà Thông tư hướng dẫn. . II- “CHA MÙ MỜ” Điều 2 Nghị định 97/2008/NĐ-CP quy định đối tượng áp dụng là “đối
với các tổ chức, cá nhân tham gia việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch
vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet tại Việt Nam”.
Là đối tượng có hành vi trực tiếp, tức chính cá nhân, tổ chức “quản lý,
cung cấp, sử dụng” mà có hành vi vi phạm vào Điều 6 thì cá nhân, tổ
chức đó mới phải chịu trách nhiệm. Cá nhân, tổ chức không chịu trách
nhiệm đối với hành vi của bên thứ 3. Nguyên
tắc cá nhân, tổ chức tự mình chịu trách nhiệm hành vi của mình, không
chịu trách nhiệm về hành vi của cá nhân, tổ chức khác cũng là nguyên
tắc chung của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành (Trừ trường hợp bồi
thường thiệt hại theo quy định tại các Điều 606, 621, 622 Bộ Luật Dân
Sự). Điều
6 Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 08 năm 2008 của Chính phủ về
quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên
Internet” quy định: Các hành vi bị nghiêm cấm 1. Lợi dụng Internet nhằm mục đích: a.
Chống lại nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; gây phương hại
đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; phá hoại khối đại đoàn
kết toàn dân; tuyên truyền chiến tranh xâm lược; gây hận thù, mâu thuẫn
giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; tuyên truyền, kích động bạo lực,
dâm ô, đồi trụy, tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan; phá hoại thuần
phong, mỹ tục của dân tộc. b. Tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại và những bí mật khác đã được pháp luật quy định; c. Đưa các thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức; danh dự, nhân phẩm của công dân; d. Lợi dụng Internet để quảng cáo, tuyên truyền, mua bán hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục cấm theo quy định của pháp luật. 2.
Gây rối, phá hoại hệ thống thiết bị và cản trở trái pháp luật việc quản
lý, cung cấp, sử dụng các dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên
Internet. 3. Đánh cắp và sử dụng trái phép mật khẩu, khoá mật mã và thông tin riêng của các tổ chức, cá nhân trên Internet. 4. Tạo ra và cài đặt các chương trình virus máy tính, phần mềm gây hại để thực hiện một trong những hành vi quy định tại Điều 71 Luật Công nghệ thông tin. -
Đọc nội dung các điều cấm trên thì thấy điểm b khoản 1 không liên quan
đến dân mà liên quan đến cán bộ Nhà nước, chỉ cán bộ Nhà nước mới biết
những cái gì thuộc “bí mật” Nhà nước, cái gì nằm trong danh mục “bí
mật”, cái gì nằm ở phạm vi “bật mí”, dân thì có tiếp cận, có nắm được
“bí mật” gì đâu mà sợ dân “bật mí”, vì vậy tôi không bàn ở đây. -
Nội dung điểm d khoản 1 cũng tương đối rõ, vì có câu “thuộc danh mục
cấm theo quy định của pháp luật”, nghĩa là trước khi muốn “quảng cáo,
tuyên truyền, mua bán hàng hóa, dịch vụ” gì đó thì lấy cái danh mục Nhà
nước đã ban hành ra mà đối chiếu, nếu những điều định làm có tên trong
danh mục ấy thì thôi, nếu không thì cứ vô tư, thoải mái. Bởi người dân
được làm tất cả những điều pháp luật không cấm, còn cán bộ muốn xử lý
dân về bất cứ lãnh vực nào cũng đều phải chiếu theo quy định cụ thể của
từng điểm, điều, khoản rõ ràng của văn bản quy phạm pháp luật, hành vi
vi phạm phải trùng khớp với quy định thì mới xử lý được, nếu không thì
thôi, không được quyền áp dụng “hình như”, “tương tự”… Ví
dụ: Bộ Luật Hình Sự chỉ quy định các tội trộm cắp, cướp, cướp giật,
công nhiên chiếm đoạt, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, .v.v… đối tượng bị
xâm hại luật quy định tài sản. Do đó, các hành vi trộm cắp, cướp, cướp
giật, công nhiên chiếm đoạt, lừa đảo chiếm đoạt… giấy tờ tùy thân của
người khác, giấy tờ về quyền sở hữu tài sản, văn bằng, chứng chỉ của
người khác, v.v… lại không phải là phạm tội hình sự vì các hành vi này
không được quy định trong Bộ Luật Hình Sự. Việc xử lý các hành vi này
được quy định ở các văn bản luật khác. -
Điểm c khoản 1 quy định tuy chưa cụ thể nhưng vẫn có thể hiểu được
“xuyên tạc, vu khống” tức là thông tin sai sự thật, chuyện không nói
có, chuyện có nói không, hoặc trích dẫn cắt đầu cắt đuôi câu nói, bài
viết của người khác rồi “si diễn” theo nghĩa xấu làm mất uy tín người
viết, người nói câu bị trích dẫn ở trên. - Khoản 2, 3, 4 quy định hành vi vi phạm tương đối rõ ràng, cụ thể, người dân không cần trình độ văn hóa cao đọc vẫn hiểu được. -
Riêng điểm a khoản 1 thì mù mờ, khó hiểu, đọc lên nghe như trẻ nít ê a
đọc Tam Tự Kinh chữ Nho có dò có dọc, có vần có điệu mà chẳng hiểu
nghĩa câu là gì. °
Chủ nhân blog có hành vi “Chống lại nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” cụ thể là gì? Viết câu “Đả đảo Đảng Cộng Sản Việt Nam” (không
phải Nhà nước) có phải là “chống Nhà nước” không? Hay viết: “Quan chức
Việt Nam trong nước thì tham nhũng, hối lộ; đi ra nước ngoài thì ăn
cắp, buôn lậu; xuất khẩu lao động thì như buôn nô lệ” (dĩ nhiên có dẫn
chứng cụ thể) có phải là “chống Nhà nước” không? Hay phê phán, chỉ
trích một khuynh hướng, phương pháp sai lầm của Nhà nước thì có phải là
“chống Nhà nước” không? °
Như thế nào là viết blog mà “gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội” thì chính tôi cũng chịu chết không hiểu nổi. Viết
bài xúi giục người khác đánh nhau, đâm thuê chém mướn, tạt acid, cướp
có vũ khí, buôn ma túy chăng? Nếu “xúi” mà người đọc không thèm để ý
đến, không thèm đọc (có khi người đọc còn chửi chủ nhân của blog đó hơi
bị khùng nữa) thì chủ nhân blog đó có vi phạm không? °
Viết blog mà “phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân” là phá hoại như thế
nào? Chuyện ai cũng biết là cách đây không lâu có cô bé “dại mồm” đã
lên blog mình viết 1 bài chê Hà Nội, vậy là cô bé bị hàng ngàn blogger
khác tới tấp “dạy cho bài học” dám “phân biệt Bắc Nam” đến mức cô bé
không phản ứng kịp nên phải đóng blog. Như vậy cô bé đó có “phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân” hay không? °
Viết blog mà “tuyên truyền chiến tranh xâm lược” nghe còn ngô nghê hơn
nữa. Cái này các vị soạn thảo Nghị định đã quá lo xa. Ai cũng biết một
thực tế là nước Việt Nam nhỏ bé, dân tộc Việt Nam nghèo, trình độ dân
trí, kinh tế Việt Nam không dám so sánh với các nước phát triển ở châu
Âu, chỉ so với các nước trong khu vực thì Việt Nam đã “chạy sau đuôi”
người ta rồi, hơi sức đâu mà đi xâm lược người khác. Xâm lược thiệt
người ta cũng không sợ, nói gì đến chuyện “đánh võ mồm” trên mạng chỉ
tổ làm trò cười cho thiên hạ. Vừa rồi có tên điên bên Trung Quốc tung
lên mạng china.com một bài bằng chữ Tàu đòi “Bình định Việt Nam trong
30 ngày”; nếu blogger Việt Nam nào đó, vô phúc cho hắn biết đọc chữ Tàu
và hắn cũng biết nhục, biết tự ái dân tộc nên cũng post blog mình một
bài chữ Việt “Làm cỏ Trung Hoa trong 3 ngày” để “đánh trả” thì hắn có
bị nhà cầm quyền Việt Nam coi là “tuyên truyền chiến tranh xâm lược”
không nhỉ? Hay
phía Trung Quốc họ cho đăng bài trên báo, trên mạng thông tin Hoàng Sa,
Trường Sa là thuộc chủ quyền của họ, các blogger Việt Nam đăng thông
tin “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Đánh đuổi Trung Quốc ra khỏi
Hoàng Sa, Trường Sa” thì có bị nhà cầm quyền coi là “tuyên truyền chiến
tranh xâm lược” hay không? °
Viết blog mà “gây hận thù, mâu thuẫn giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn
giáo” là như thế nào? Ví dụ: Tôi theo một tôn giáo A nào đó, suốt ngày
tôi cứ viết bài ca ngợi cái tôn giáo A của tôi đến tận mây xanh mà
không thèm để mắt đến tôn giáo khác thì có bị coi là “gây hận thù, mâu
thuẫn” hay không? °
Như thế nào là viết blog mà “Tuyên truyền, kích động bạo lực, dâm ô,
đồi trụy, tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan”? Sex cỡ nào thì “nghệ
thuật” mà sex cỡ nào là “nghệ thực”, đánh đấm cỡ nào là phim “võ thuật”
mà cỡ nào bị coi là “bạo lực”, cỡ nào là “liêu trai chí dị” mà cỡ nào
là “mê tín dị đoan”, v.v…? Lĩnh vực này ngay cả các nhà làm phim, các
nhà biên kịch, các nhà quản lý, thẩm định tác phẩm vẫn còn tranh cãi
nhau bất phân thắng bại, nơi cho phép lưu hành, nơi bảo là không; thì
lấy tiêu chí nào để người viết blog dựa vào đó mà phân biệt cái ranh
giới “được phép-không được phép” chỉ bằng một câu chung chung, tối
nghĩa ở trên? °
Thế nào là “phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc”? Lấy chuẩn mực
nào để phân biệt điều này? Ai cũng biết phụ nữ Việt có truyền thống kín
đáo, e ấp, vậy cô “Thiếu nữ ngủ ngày” hớ hênh, tô hô của bà Hồ Xuân
Hương có “phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc” không? . III- “CON ĐẺ NGƯỢC” Thông tư số 07/2008/TT-BTTTT ngày 18/12/2008 “Hướng dẫn một số nội dung về hoạt
động cung cấp thông tin trên trang thông tin điện tử cá nhân trong Nghị
định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 08 năm 2008 của Chính phủ về quản
lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên
Internet”, đáng lẽ phải đi sâu vào giải thích, cụ thể hóa
những điểm còn mù mờ, khó hiểu của Nghị định số 97/2008/NĐ-CP, cụ thể
là các khoản 1, 2, 3, 4 của Điều 6 để người dân dễ hiểu mà thực hiện,
thì các vị soạn thảo Thông tư số 07/2008/TT-BTTTT lại “đẻ ngược” bằng
cách tự cho phép mình thêm vào các quy định mới. Đúng
ra, TT 07 phải lần lượt nêu định nghĩa, giải thích rõ từng ý, từng câu
trong Điều 6 Nghị định 97/2008/NĐ-CP nghĩa là gì, hành vi vi phạm cụ
thể ra sao, thì đàng này TT 07 không định nghĩa, không giải thích mà
lại thêm quy định mới, đọc xong càng thấy mù mờ hơn. Cụ thể: - Điểm 3.1 TT 07 quy định: “Lợi
dụng trang thông tin điện tử cá nhân để cung cấp, truyền đi hoặc đặt
đường liên kết trực tiếp đến những thông tin vi phạm các quy định tại
Điều 6 Nghị định số 97”. Hành vi này hoàn toàn không được
quy định tại Nghị định 97. Nhiệm vụ của TT 07 là “giải thích, hướng
dẫn” Nghị định 97, không phải là đặt thêm quy định. Tự đặt thêm quy
định trỏ ngược về Nghị định 97 tức là TT 07 đang “đẻ ngược” đó. Mặt
khác, “lợi dụng” tức là hành vi cố ý. Đối tượng điều chỉnh của Nghị
định 97 là đối tượng trực tiếp, thì Thông tư giải thích Nghị định 97
không có quyền thay đổi chủ thể bị điều chỉnh. Như vậy, việc “lợi dụng”
phải được hiểu là chính chủ nhân blog đó “lợi dụng” chớ không phải là
một kẻ thứ 2, thứ 3. Trong khi TT 07 không ban hành kèm theo được một
danh mục những trang nào bị coi là trang vi phạm thì blogger làm sao
biết “những thông tin vi phạm” mà hạn chế. Như vậy, khi đó các vị lại
mặc tình làm mưa làm gió, sách nhiễu người dùng, các vị thích “si diễn”
trang nào vi phạm thì trang đó bị coi là vi phạm. Hay các vị muốn tạo
cơ hội cho cán bộ quản lý “đục nước béo cò” chăng? Vậy
mà, ông Lưu Vũ Hải (Cục trưởng Cục Quản lý phát thanh, truyền hình và
Internet, thành viên ban soạn thảo Thông tư 07) còn “si diễn” thêm rằng
chủ nhân blog phải chịu trách nhiệm đối với bên thứ 2, bên thứ 3, bên
thứ n… nếu blogger đó có ý kiến trong blog mình. Đây rõ ràng là kiểu lý
sự cùn, nói lấy được, trong thế giới phẳng thì mọi người đều bình đẳng,
đều có quyền phát biểu chính kiến của mình, nói mà bắt buộc ai cũng
đồng ý với mình, không cho người khác phản biện thì chỉ có nói với con
vật (vì chúng không biết nói lại) chớ không thể nói với con người. Ví
dụ: Blogger A viết bài về một vấn đề nào đó, blogger B phản đối bài
viết của A, để ý kiến của mình có thêm “sức nặng”, B trích dẫn nội dung
ở một nơi nào đó kèm theo link nguồn trích dẫn để chứng minh rằng lời
nói của B là có căn cứ đàng hoàng. Blogger C lại nhảy vô có ý kiến khác
và cũng trích dẫn 1 nguồn khác, v.v…. thì A hơi sức đâu mà đi kiểm tra,
đối chiếu, so sánh là mấy cái link kia có nằm trong “danh mục cấm”; hơn
nữa, “danh mục cấm” cũng chưa có, biết cái nào hợp pháp, cái nào không
hợp pháp? Hoặc đơn giản hơn, blogger B, blogger C, hay blogger n có ý
kiến rằng tôi đọc thấy cái tin đó tin đó trên trang đó, không kèm link.
Ai tò mò cứ việc vào Google search cái tên đó một phát là Google cho
kết quả hàng đống đống, cần gì phải có link mới vào được. Cỗ máy tìm
kiếm của đại gia Google còn có nhiều rất điều thú vị khác mà những ai
thích tìm kiếm thông tin đều biết cả, không có gì che giấu được. Có
lẽ ông Lưu Vũ Hải chưa bao giờ biết tận dụng ưu điểm của Google, ông
cũng chưa biết tự lập cho mình một cái blog, chưa bao giờ viết blog,
đặc biệt chưa bao giờ được là chủ nhân của một cái blog hơi bị nổi
tiếng nên ông Lưu Vũ Hải chưa biết quản lý một cái blog là như thế nào? - Điểm 3.2 TT 07 quy định: “Tạo
trang thông tin điện tử cá nhân giả mạo cá nhân, tổ chức khác; sử dụng
trái phép tài khoản trang thông tin điện tử cá nhân của cá nhân khác;
thông tin sai sự thật xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân” thì không biết điểm 3.2 này giải thích điểm, khoản nào
trong Điều 6 Nghị định 97, bởi lẽ nó vừa có một chút “đá” sang điểm c
khoản 1, vừa có một chút “đá” qua khoản 3, mà không giải thích rõ ràng
đến đầu đến đũa khoản nào. - Điểm 3.3 quy định: “Truyền
bá các tác phẩm báo chí, tác phẩm văn học, nghệ thuật, các xuất bản
phẩm vi phạm các quy định của pháp luật về báo chí, xuất bản”
là quy định rất chung chung, không rõ ràng. “vi phạm các quy định của
pháp luật về báo chí, xuất bản” là vi phạm như thế nào? Ví dụ: Sau khi
vinh danh, trao giải cho cố nhà thơ Trần Dần, thì đùng một cái, quyển
tuyển tập thơ Trần Dần bị coi là vi phạm, phải thu hồi (chả biết vi
phạm quái gì nữa). Dư luận phản đối rầm trời cái sự quy chụp vô lý đó
thì người ta bèn phạt vu vơ Nhà xuất bản (lỗi gì chẳng biết, cái này
chắc thuộc “bí mật Nhà nước”?) và không thu hồi tác phẩm nữa. Như vậy,
căn cứ theo điểm 3.3 nói trên thì rõ ràng là có “vi phạm”, vậy blogger
được quyền photocopy, sao chép cho người này người kia (không bán)
nhưng lại không được quyền post thơ Trần Dần lên blog mình hay sao? - Điểm 3.4 và 3.5 quy định: “Sử dụng những thông tin, hình ảnh của cá nhân mà vi phạm các quy định tại Điều 31, Điều 38 Bộ Luật Dân sự”, “Cung
cấp thông tin trên trang thông tin điện tử cá nhân mà vi phạm các quy
định về sở hữu trí tuệ, về giao dịch thương mại điện tử và các quy định
khác của pháp luật có liên quan” thì lại thấy chẳng ăn nhập
gì với quy định tại Điều 6 Nghị định. Thông tư là để giải thích Nghị
định cho rõ ràng thêm, nhưng lại đi vơ Điều luật của ngành luật khác
vào cho thêm phần… rậm rạp, chớ không giải quyết được điều gì. Những
điều đó luật đã có quy định cụ thể từ lâu rồi, đâu cần chờ đến TT 07
thì người dân mới biết. Ai không tin ngay bây giờ cứ việc vi phạm thử
các Điều Điều 31, Điều 38 Bộ Luật Dân sự và luật sở hữu trí tuệ, giao
dịch thương mại điện tử xem, thì người đó sẽ biết thế nào là đóng vai
“người bị kiện” và nếm cảm giác lạ “hầu Tòa” lập tức, mà vụ ầm ĩ vừa
rồi giữa Công ty FPT và Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Việt Nam về website nhacso.com là một ví dụ điển hình. Tóm
lại, TT 07 tự đặt ra quy định mới là vi phạm nguyên tắc hợp pháp, thống
nhất của Điều 2 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; sử dụng ngôn
ngữ diễn đạt rối rắm, mơ hồ, đa nghĩa là trái với Điều 5 Luật ban hành
VBQPPL. Trường hợp này, theo Điều 2 Luật Ban hành VBQPPL thì TT 07 phải
bị bãi bỏ, đình chỉ việc thi hành (“Văn bản quy phạm pháp
luật trái với Hiến pháp, trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên
phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, đình chỉ việc thi
hành”). . IV- XA RỜI THỰC TẾ NÊN BẤT KHẢ THI Nguyên
tắc hiện hành của pháp luật Việt Nam là cá nhân, tổ chức có quyền nhưng
không có nghĩa vụ phải chứng minh mình vô tội. Nghĩa vụ chứng minh đối
tượng có hành vi vi phạm thuộc về cơ quan quản lý. Nếu cơ quan quản lý
chứng minh được đương sự có vi phạm thì cơ quan quản lý mới có thể ra
quyết định xử lý, không thì thôi. Tuy
nhiên, thực tế lại từng xảy ra những trường hợp rất ngược đời là cơ
quan quản lý mời một anh A, anh B, anh C nào đó đến đơn vị mình, chìa
ra một xấp giấy rồi hỏi: “Cái này có phải của anh không? Nếu phải thì
xác nhận vào?” là xong. Nếu
như đối tượng bảo: “Không phải của tôi”, “Tại sao tôi phải xác nhận cho
các anh? các anh nói nó là của tôi thì các anh chứng minh đi?”, “Các
anh nói là biết rõ rồi còn hỏi tôi chi nữa?” thì cán bộ lúc đó sẽ nghệt
mặt ra như ngỗng đực. Nếu cán bộ cố nói thêm vài câu kiểu: “Nhưng trong
có chúng tôi thấy có hình ảnh này nọ của anh, có phát biểu của anh”.
Đối tượng trả lời: “Ô hay, nếu có ai đó lấy hình Thủ tướng, hình Chủ
tịch nước, copy những lời phát biểu của các vị ấy rồi tương lên thì cái
trang ấy là của Thủ tướng, của Chủ tịch nước à. Các anh đến phủ Thủ
tướng, phủ Chủ tịch mà vặn vẹo à? Bảo Thủ tướng, Chủ tịch nước xác nhận
cho các anh à? Hay là các anh khúm núm không dám thở một tiếng, chỉ
giỏi lên mặt hà hiếp, hạch sách dân đen thôi?” thì cán bộ sẽ tắc tị
ngang cổ họng, bảo đảm mấy ngày sau cổ vẫn còn tắc. Sau
khi cơ quan quản lý nhì nhằng chứng minh v.v… và v.v… thì đương sự sẽ
khiếu nại và khởi kiện quyết định hành chính ra Tòa. Trong quảng thời
gian nhì nhằng ấy đương sự đã kịp “phù phép” blog của mình một cách
“tèng téng teng” rồi. (Riêng bên trong cái sự “nhì nhằng chứng minh” ấy sẽ còn lắm điều “thú vị ra trò” mà tôi sẽ nói đến ở một bài khác). Đây
là chỉ nói đến trường hợp các blogger chính danh, có họ tên địa chỉ
công khai, không cần dò tìm gì ráo (mà số này lại chiếm rất ít trên
mạng). Trường hợp các blogger ẩn danh, giấu địa chỉ IP thì họ có trăm
phương ngàn kế, muốn thay đổi blog thì blogger thông báo kín cho
Friends của mình sang địa chỉ mới, cái cũ chỉ cần delete 1 phát là biến
mất tăm. Đó chưa nói đến những blogger viết tiếng Việt đang ở nước
ngoài. . V- VÀI VẤN ĐỀ KHÁC -
Năm 213 trước Công nguyên, theo đề nghị của Lý Tư, Tần Thủy Hoàng ra
lệnh đốt sách và chôn Nho. Nhà Tần chỉ muốn nhồi nặn dân chúng thành dễ
bảo, có kỷ luật. Tự do tư tưởng, tự do ngôn luận là tội nặng nhất. Tứ
Thư và Ngũ Kinh của đạo Nho bị xem là phản động vì khiến dân nhớ tiếc
trật tự cũ của chế độ phong kiến cát cứ. Hầu Sinh và Lư Sinh bàn nhau: “Thủy
Hoàng tính khí bướng bỉnh, gàn dỡ, chỉ nghe theo mình. Xuất thân là chư
hầu, thâu tóm cả thiên hạ, ý chí tự đắc, muốn gì được nấy, tự cho rằng
từ xưa đến nay không ai bằng mình, chuyên dùng bọn pháp quan. Nhà vua
thích việc hình phạt chém giết để ra uy. Thiên hạ sợ tội muốn giữ bổng
lộc không ai dám hết lòng trung. Nhà vua không nghe nói đến sai lầm của
mình nên ngày càng kiêu ngạo. Ở dưới thì sợ nép một bề, nói dối để được
dung thân”. Nhà
Tần ở ngôi vua được 2 đời, đời thứ 2 là Nhị Thế (Hồ Hợi) quyền hành
hoàn toàn rơi vào tay Triệu Cao, đời thứ 3 là Tam Thế (Thế Anh) chưa
làm vua được ngày nào đã bị Hạng Vũ giết chết. Khắp nơi đều có binh
khởi nghĩa nổ ra, xưng vương cát cứ, nổi bật có Lưu Bang, Hạng Vũ, Anh
Bố, Bành Việt Xem ra cái chiêu “bịt mồm” của Tần Thủy Hoàng không thể tồn tại lâu được mà chỉ khiến lòng dân thêm phẫn nộ. -
Đức Phật Thích ca, Đức Chúa Jesu suốt mấy ngàn năm nay chủ trương đem
tình yêu chân thành đến với mọi người, không lọc lừa dối trá, vì vậy mà
con người từ Đông sang Tây đời đời nghe theo hai Ngài, tôn kính hai
Ngài. Hai Ngài không buộc ai, nhưng tư cách đạo đức của hai Ngài chính
là tấm gương để con người tự nguyện noi theo mà không cần dùng sức mạnh
cưỡng ép: “Xét lòng hằng sửa đàng siêu thoát/ Giúp kẻ quên mình lộ Tây phương”, “…Phúc
thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho
thoả lòng. Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót
thương….”. Hoàng đế Nero dù khoác lên mình bao lụa là gấm vóc đắt
tiền, bỏ ra nhiều ngọc ngà châu báu, quyền lực để mua cho mình các danh
hiệu họa sĩ, nhạc sĩ, thi sĩ, đủ thứ sĩ, thậm chí đốt cháy cả thành
Roma; nhưng trong mắt thần dân Nero chỉ là kẻ bạo chúa ngu xuẩn mà mọi
người luôn mong hắn chết cho khuất mắt. Sự dối trá, bịp bợm, sức mạnh
bạo tàn chỉ tồn tại nhất thời; tình yêu thương, sự chân thật mới là
vĩnh hằng mãi mãi. -
Trong một cuộc chơi tập thể thì mọi thành viên tham dự phải chấp nhận
luật chơi chung, chớ không thể vào sân chơi chung mà cứ xài luật riêng
của mình, nếu muốn vậy mời anh đi ra chổ khác mà chơi riêng. Ví dụ:
Chơi bóng đá là phải chấp nhận Luật của FIFA: chơi bóng bằng chân, bằng
đầu trong mọi trường hợp, bất kể cầu thủ cao hay thấp, mập hay ốm.
Không thể viện lý do: Vì tôi thấp bé hơn các anh kia nên tôi chơi thêm
bằng tay để tăng cường chiều dài của tôi. Trong điều kiện toàn cầu hóa
thì một khi anh đã đặt bút ký vào Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền
thì anh phải chấp nhận tiêu chuẩn chung trong Tuyên ngôn, nếu không anh
có quyền rút lui; còn ký bừa để ra điều ta đây cũng tiến bộ, cũng văn
minh, cũng hội nhập mà không thực hiện thì chẳng khác nào tự nhổ nước
bọt vào cái uy tín, sĩ diện quốc gia của mình. Có người lại huyênh
hoang trước Quốc Hội Châu Âu rằng người Việt nghèo nên chỉ cần ăn là
đủ, không cần những thứ khác thì chẳng khác nào bôi tro trát trấu vào
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. -
Hãy trả cho người dân quyền tự do ngôn luật, tự do báo chí, tự do phát
biểu chính kiến. Đó là những giá trị văn minh của nhân loại đã được
thừa nhận sau mấy ngàn năm tiến hóa, là những giá trị mà dân tộc Việt
Nam đã đổ biết bao xương máu để được ghi nhận trong bản Tuyên ngôn độc
lập. Một thế hệ con người có thể mất đi, một chế độ chính trị có thể bị
thay đổi, một thành quách đô thị có thể bị chôn vùi, nhưng những giá
trị văn minh nhân loại thì không bao giờ mất đi, không bao giờ thay đổi. * * * Để kết thúc entry này, tôi muốn nhắc lại một câu trong bài viết cũ của mình:
“Hàng rào hữu hiệu nhất chính là lòng người. Lịch sử loài người ghi
nhận trong bất cứ cuộc chiến nào, chống lại ý dân là điều bất khả thi.
Tính thông minh và khả năng sáng tạo của dân tộc Việt Nam là vô hạn”. . Tạ Phong Tần
|