Nhân
ngày đầu năm dương lịch 2009 và cũng là thời gian ghi dấu 34 năm Việt
Nam quê hương với tên gọi não lòng «Việt Nam đau thương». Đồng bào quốc
nội vẫn triền miên trong kiếp lầm than, đọa đầy, nô vong ngay chính
trên quê hương mình. Ba triệu con dân Việt tỵ nạn hải ngoại, tiếp tục
lưu bạt nơi xứ người ngàn dặm. Tất cả, luôn tự hỏi: Tại sao bạo quyền
Cộng Sản Hà Nội (CSHN) chưa sụp đổ? Là con dân nước Việt, chúng ta phải
làm gì để giải cứu quê hương và hồi sinh dân tộc.
Với
một vài nhận định ngắn gọn, qua bài này, chúng tôi hòan toàn không có
tham vọng giải trình được đầy đủ mọi nguyên nhân chi tiết của vấn đề.
Song qua đây, chúng tôi muốn gợi lên những nguyên cớ cơ bản, thực tại
hiện hành, để chúng ta cùng xem xét, suy ngẫm, ngỏ hầu tìm ra những
phương thức đấu tranh thực tiển, hữu hiệu và hành động chính xác cho
công cuộc giải cứu quê hương khỏi ách thống trị bạo tàn của CSHN hiện
nay, đem lại tự do, dân chủ, nhân bản và phú cường cho dân tộc.
Ngày nay, như ai nấy đều biết và nhìn thấy rõ, rằng «chủ nghĩa Maxit-Leninit» đã là cột sống cho cái lâu đài «xã hội chủ nghĩa» và,
CSHN qua thực tế, chúng đã tồn tại đến hơn hai phần ba thế kỷ, đều minh
chứng là một chủ thuyết hoang tưởng, không duy trì được sức sống trong
thực tại xã hội và đã đưa đến sự sụp đổ toàn bộ của cái mà CSHN gọi là «hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới», hay còn được gọi «quốc tế Cộng Sản», đứng đầu là Liên Xô cũ.
Nhưng
từ ngày bức tường Bá Linh sụp đổ, thì tính chất xảo trá của y thức hệ
CS càng bị lột trần. Về mặt ly luận và thực tế, nó chỉ còn là bộ xương
không tủy. Nhân dân Việt Nam cũng như toàn thế giới đã nhìn rõ bộ mặt
thực phi nhân, phi dân tộc và độc ác của chủ nghĩa và cơ chế CS. Điều
này càng được khẳng định dứt khoát hơn qua những lời phát biểu của
Mikhail Gorbachev, người lãnh đạo quốc tế CS đã tuyên bố sau khi toàn
thể Đông Âu thoát khỏi ách CS: «nhân loại đã phải tốn quá nhiều thì
giờ cho những tranh chấp giữa hai dòng y thức hệ, chủ nghĩa kinh tế tự
do và xã hội chủ nghĩa. Đây là điều không thể tái diễn trong thế kỷ 21.
Cuộc thử nghiệm chủ nghĩa xã hội đã hoàn toàn thất bại. Đó là thực tế
chứ không phải là điều tuyên truyền». Điều trơ trẽn thay, là hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã sụp đổ ngay trên đất nước đã khai
sinh ra nó. Vậy tại sao CSHN vẫn chưa sụp đổ?
Câu
hỏi này chắc chắn đang ray rứt trong tim óc của hàng triệu đồng bào
không chỉ ở trong nước mà ngay cả trên thế giới trong đó có 3 triệu
người Việt tỵ nạn chúng ta. Đi tìm hiểu nguyên cớ của sự kiện, theo suy
nghĩ còn thiển cận và qua nghiên cứu còn ít ỏi, chúng tôi chỉ xin lạm
bàn và nêu ra 2 nguyên nhân chính: Nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân
khách quan.
1/ Nguyên nhân chủ quan thuộc về CSHN, Tạm chia thành 5 trọng điểm:
a/
CSHN đã có hơn 7 thập niên cai trị nhân dân bằng chính sách bóc và kìm
kẹp, bằng mọi thủ đoạn gian trá và độc ác dựa trên tổ chức Đảng và bộ
máy công an, bộ đội từ trung ương đến địa phương.
b/
CSHN vô cùng mưu mô, thủ đoạn, xảo quyệt và quyết liệt trấn áp những
người chống đối cũng như những người bất đồng chính kiến với chúng;
đồng thời, chúng cũng vô cùng gian manh trong cách thức mỵ dân, tìm mọi
cách bưng bít, che đậy và làm ngu dân, bần cùng hóa xã hóa để dễ bề cai
trị.
c/
CSHN tuy có mâu thuẫn sâu sắc về quyền lợi, về địa phương, về chủ
nghĩa, về dòng họ, về bè cánh, và tuy cấu xé lẫn nhau tùy từng cá nhân,
tùy từng phe cánh nhất thời; nhưng đó chỉ là những mâu thuẫn nội bộ,
không phải là mâu thuẫn đối kháng địch ta; càng chưa phải là mâu thuẫn
đối kháng về quan điểm chính trị giữa chuyên chính vô sản với quan điểm
dân chủ, tự do trong nội bộ chúng. Nếu có ai có quan điểm tiến bộ về
dân chủ, tự do, ,lập tức chúng trấn áp, đè bẹp ngay mặc dù phần tử đó ở
ngôi vị cao cấp nào đi nữa.
d/
CSHN đang nắm trọn quyền hành trong tay và hơn thế nữa, chúng nắm trọn
công cụ của chuyên chính vô sản là: quân đội, công an, nhà tù, máy chém
và đang xử dụng tối đa bộ máy tuyên truyền để không ngừng cổ động, bào
chữa và lừa bịp đồng bào quốc nội, dư luận quốc tế, thế giới tự do và
người Việt tỵ nạn Cộng Sản hải ngoại chúng ta.
e/
CSHN đã gắn chặt 2 đơn vị sống là quyền và lợi. Chúng căn dặn lẫn nhau:
Có quyền là có lợi; có lợi là có lộc; có lộc là có phúc và, có phúc là
có thọ. Do đó, chỉ có «chết đi», CSHN mới buông thả quyền cai trị của
chúng. Một ngày CSHN còn tồn tại là một ngày chúng còn bảo thủ, còn cố
sống, cố níu, cố giữ chặt lấy cái ngai vị của mình. Nếu có phải nhượng
bộ, chỉ là vì quá sức chịu đựng, chúng đành phải nhượng bộ để duy trì
sự bảo thủ và sự tồn tại của chúng mà thôi. Đừng bao giờ ấu trĩ có ảo
tưởng chờ đợi ở sự thay đổi cùa CSHN và hơn thế nữa, đừng bao giờ ngồi
khoanh tay chờ đợi «bất chiến tự nhiên thành» sự tự sụp đổ của bạo
quyền CSHN. Trái lại, chúng ta phải kiên trì và tích cực đấu tranh hơn
nữa trên mọi lãnh vực, trên mọi bình diện, dưới mọi hình thức và, bằng
mọi phương tiện, bằng mọi phương thức, Nói một cách khác, đấu tranh với
bạo quyền CSHN và bọn tay sai của chúng tại hải ngoại hiện nay, chúng
ta phải đấu tranh một cách quyết liệt, triệt để, trường kỳ, liên tục và
toàn diện, chúng ta mới hy vọng loại bỏ được bạo quyền ra khỏi cộng
đồng dân tộc và quang phục được quê hương.
2/ Nguyên nhân khách quan, Tạm chia làm 3 trọng điểm:
a/
Về quốc nội: Đại bộ phận đồng bào cho đến nay vẫn còn bị bạo quyền CSHN
bưng bít, ru ngủ, làm ngu muội hóa cả hơn nửa thế kỷ qua, nên vẫn còn
ngỡ ngàng giữa thật giả, tốt xấu, trắng đen về tập đoàn thống trị. Với
chính sách không ngừng tuyên truyền lừa bịp, mỵ dân, gian ngoa, người
dân dễ dàng nhận thấy những gì mà bạo quyền thường rêu rao: «Thực dân Pháp, đế quốc Mỹ» là kẻ thù đích thực của dân tộc, khiến người dân thực khó nhận ra «người đồng chí của mình hôm qua lại đang là kẻ cướp dựt đồng tiền của mình hôm nay».
Đây là mặt trận tâm ly hiện còn đầy phức tạp, chỉ vì đại bộ phận đồng
bào vẫn còn «nghèo đói và chậm tiến», nó không thể là một trận tuyến
đánh bài ngửa như mặt trận súng đạn. Tuy vậy, những tư tưởng về tự do,
dân chủ, nhân quyền và quyền mưu cầu hạnh phúc, đã bàng bạc ngay trong
tâm tự nơi người con, người vợ, người chồng, người bạn,… đang là những
mâu thuẫn với tư tưởng bảo thủ, độc quyền của chính người ông, người
bố, người chồng, người vợ hay người bạn trong hàng ngũ của những kẻ có
chức, có quyền, ngày một bộc phát mạnh mẽ trong guồng máy của bạo quyền
CSHN. Ranh giới đối nghịch về quan điểm chính trị này đang tròng tréo,
chằng chịt với nhau, khó mà phân biệt minh bạch được. Đó cũng là ly
do, mọi giới thành phần dân tộc cũng như quần chúng quốc nội hiện nay,
chưa thể đồng loạt có thái độ dứt khoát vùng dậy chống lại tập đoàn
thống trị được. Tuy vậy, từ nhiều năm qua, vẫn có những cuộc vùng dậy
đấu tranh của các vị lãnh đạo tôn giáo, điển hình, như: Cố Tăng Thống
Thích Huyền Quang, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Cố Tổng Giám Mục
Nguyễn Kim Điền, các LM Nguyễn Văn Ly, Nguyễn Hữu Giải, Chân Tín,
Phan Văn Lợi; các MS Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Công Chính,…, các nhân sỹ,
trí thức, những người tiến bộ trong nhân dân, như: BS Nguyễn Đan Quế,
Phạm Hồng Sơn; LS Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Lê Chí Quang; các
nhà văn: Trần Khải Thanh Thủy, Nguyễn Văn Chấn; các nhà báo: Nguyễn Vũ
Bình, các GS Trần Khuê, Nguyễn Xuân Tụ,… và ngay cả trong hàng ngũ Đảng
CS, như: ông Trần Xuân Bách, ông Nguyễn Hộ, ông Hoàng Hữu Nhân, ông
Nguyễn Trung Thành, ông Lê Hồng Hà, ông Nguyễn Trung Hiếu, Cố ly
thuyết gia CS Hoàng Minh Chính, cố cựu Tướng Trần Độ, cựu Đại Tá Phạm
Quế Dương, tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang,… mà đỉnh cao của các phong trào
đấu tranh là các cuộc nổi dậy của nhân dân Thái Bình, Nam Định, Thanh
Hóa, Xuân Lộc, Đồng Nai, Bến Tre, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thái Hà, An Bằng,
Tổng Giáo Phận Hà Nội,v.v. Những cuộc vùng dậy này, tuy đã tượng trưng
cho sức mạnh đấu tranh bật lên từ nhân dân, song chưa phải là sự tức
nước vỡ bờ của toàn dân khắp ba miền, nên chưa đánh đổ được bạo quyền
thống trị CSHN. Hơn thế nữa, những cuộc vùng dậy mới chỉ nhắm vào việc
chống tham nhũng, bất công, dân oan khiếu kiện ở một số địa phương đối
với những cán bộ, công an hối mại quyền thế cấp thấp, chứ chưa nhắm vào
mục tiêu đòi xóa bỏ chế độ và cũng chưa phải là cuộc nổi dậy của toàn
dân nhắm vào đường lối độc tài, độc đảng của tập đoàn lãnh đạo CSHN,
nên chưa đủ sức mạnh để thủ tiêu chế độ hiện hành. Đây cũng là ly do
CSHN cho đến nay vẫn chưa bị sụp đổ.
b/
Về đồng bào hải ngoại: Từ nhiều năm qua, tuy đã duy trì được tinh thần
đấu tranh lâu dài, bền bỉ và đã có tác dụng to lớn trong việc đưa,
chuyển ngọn lửa đấu tranh đòi tự do, dân chủ, nhân quyền về trong nước,
rất khích lệ, động viên và yểm trợ tinh thần đấu tranh của đồng bào
quốc nội. Tuy phong trào đấu tranh chống CSHN, đòi tự do tôn giáo, dân
chủ, nhân quyền cho Việt Nam của tập thể người Việt tỵ nạn Cộng Sản tại
hải ngoại đã lan rộng khắp nơi, từ Âu sang Mỹ, từ Á đến Úc,…song phong
trào chỉ có chiều rộng mà chưa đạt được chiều sâu, chưa trở thành một
khối áp lực cần và đủ để đòi hỏi thế giới và dư luận quốc tế.buộc CSHN
phải tuân thủ những gì mà chúng đã ky kết với Liên Hiệp Quốc, với các
tổ chức quốc tế và những nước có liên hệ ngoại giao, kinh tế, văn hóa
với chúng,..không nói đến là chúng ta chưa đủ sức mạnh để lật ngược
được thế cờ, dứt điểm được cơ chế và chủ nghĩa CS phi nhân đang hoành
hành, phá nát quê hương, dân tộc.
c/ Về thế giới: Hiển nhiên thế giới ngày nay không còn phe «xã hội chủ nghĩa», hay nói một cách khác, không còn «quốc tế CS», và chỉ còn lại 4 nước: Trung Hoa, Bắc Hàn, Cuba và Việt Nam là duy trì chế độ CS «độc tài toàn trị».
Nhưng thực chất không phải là một phe, càng không phải là sự liên kết
chặt chẽ với nhau như hệ thống CS quốc tế trước đây mà chúng chỉ liên
hệ với nhau ở từng việc, từng nơi, từng lúc và chúng đã từng cắn xé
nhau như hai con thú tranh mồi. Vì vậy, các chế độc CS của các nước nói
trên không còn là mối đe dọa nguy hiểm về an ninh và sự hưng thịnh của
các cường quốc tây phương như 2 thập niên trước đây. Do vậy, việc tập
trung lực lượng của các nước tư bản nhằm tiêu diệt tận gốc rễ các nước
CS nói trên, chưa phải là việc làm cấp bách mà chỉ còn lại ở chiến lược
«diễn biến hòa bình» một cách chậm rãi. Đôi lúc vì lợi ích kinh
tế nhất thời, trước mắt, các nước tư bản còn có phần nương nhẹ với các
nước CS còn lại này. Cho nên, bốn nước CS còn lại kể trên theo đó mà
tồn tại, chưa bị sụp đổ.
Tóm
lại, chỉ có các lực lượng dân chủ của đồng bào quốc nội với sự yểm trợ
hữu hiệu của tập thể người Việt hải ngoại chúng ta cũng như các thế lực
quốc tế, dưới một kết hợp lãnh đạo đấu tranh bằng những tâm hồn trong
sáng, tình yêu nước nồng nàn, y chí tranh đấu cao độ, quyết hy sinh vì
qu ốc gia dân tộc, kiên định lập trường, giữ vững niềm tin, sắt son
tranh đấu, vì đại nghĩa quên mình, thành tín, bất khuất, kiên trì, sáng
tạo và triệt để, công cuộc giải cứu quê hương để dựng lại một Việt Nam
tự do, dân chủ, nhân bản và giầu mạnh mới đạt đến thành công.
Vậy
trong tình thế hiện nay người Việt tỵ nạn hải ngoại phải làm gì? Trước
hết, chúng ta cần xác định rõ mục tiêu đấu tranh và lập trường của
chúng ta. Đó là, không chấp nhận bất cứ một chế độ độc tài, độc đảng
nào trên đất nước, quê hương Việt Nam chúng ta. Không chấp nhận thỏa
hiệp hay hợp tác với bạo quyền CSHN dưới bất cứ hình thức nào. Chúng ta
chủ trương một chế độ dân chủ pháp trị, nhân bản, tôn trọng mọi quyền
tự do, lấy hạnh phúc người dân làm cứu cánh phục vụ, giữ gìn những giá
trị truyền thống tốt đẹp, áp dụng một nền kinh tế thị trường tự do để
đưa đất nước đến phú cường. Chúng ta đấu tranh trên mọi mặt trận, cho
đến khi nào đạt được khát vọng tự do thực sự, để toàn dân tự quyết định
vận mệnh và tương lai đất nước. Chúng ta đồng thanh kêu gọi những người
đã và đang làm lợi hoặc tin theo bạo quyền, hãy dứt khoát rời bỏ hàng
ngũ, rời bỏ chủ nghĩa và chế độ trở về với cộng đồng dân tộc. Chúng ta
kêu gọi toàn dân trong và ngoài nước, lấy hạnh phúc và tương lai của
dân tộc làm mục tiêu, quyết tâm tranh đấu cho kỳ được một chế độ thực
sự tự do, dân chủ, nhân bản và giầu mạnh. Chúng ta tiếp tục tố cáo và
vạch trần những tội ác và mọi ngụy luận của bạo quyền cùng bọn tay sai
của chúng tại hải ngoại trước quốc dân và quốc tế. Chúng ta công khai
hóa những tổ chức, những cá nhân đang tiếp tay cho bạo quyền và cùng
nhau tiếp tục dương cao chính nghiã tự do của dân tộc trước dư luận
cũng như trước mọi diễn đàn quốc tế; đồng thời, tranh thủ mọi hậu thuẫn
của thế giới. Và, hơn nữa, chúng ta cương quyết đấu tranh không khoan
nhượng với tập đoàn thống trị CSHN cùng bè lũ tay sai nằm vùng của
chúng, đang len lỏi vào các tổ chức đấu tranh, các đảng đoàn, các cộng
đồng, phong trào và mọi sinh hoạt của tập thể người Việt tỵ nạn hải
ngoại.Nhưng trước hết và trên hết, «đoàn kết hợp nhất» hiện là nhu cầu
cấp thiết và sinh tử, là phương châm hành động cho mọi nỗ lực tranh
đấu. Thế «liên kết đấu tranh» cần được đề cao, cổ võ và thực hiện trong
mọi hoàn cảnh, mọi trường hợp. Nếu được, cùng nhau sớm tiến đến một
tiếng nói chung của tập thể người Việt quốc gia hải ngoại. Chúng ta
cũng cần xác định rõ rằng, công cuộc đấu tranh mà đồng bào quốc nội và
chúng ta đây đang theo đuổi, chính là «cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc và xây dựng nhân bản» bắt nguồn từ nhận thức và ý thức của mọi con
dân Việt, nhất là với người Việt tỵ nạn chúng ta. Ý thức rằng, chúng ta
có trách nhiệm với dân tộc và tổ quốc. Vì vậy, chúng ta không đấu tranh
vì tham vọng, hoặc vì quyền lợi riêng tư. Chúng ta cũng không đấu tranh
vì sự xúc động hời hợt, hoặc chỉ để xoa dịu sự cắn rứt của lương tâm.
Do đó, hành động đấu tranh của chúng ta là hành động tự nhận thức được
trách nhiệm của mình, nên chúng ta phải có thái độ «dấn thân, hy sinh,
tự tin, thành tín, bất khuất, sáng tạo, kiên trì và triệt để». Nếu
chúng ta đấu tranh hời hợt chỉ để xoa dịu sự cắn rứt của lương tâm,
chúng ta dễ cầu an, tiêu cực, và chắc chắn sẽ không giải cứu được quê
hương, đất nước vẫn đói rách lầm than.
Cuộc
đấu tranh của chúng ta phải là một thái độ sống, một quyết tâm dấn thân
của tất cả mọi người Việt yêu nước. Chúng ta không thể bỏ qua một ngày
nào, một cơ hội thuận lợi nào mà không đóng góp vào công cuộc đấu tranh
chung. Cuộc đấu tranh phải do chính chúng ta chủ động, do chính những
người Việt yêu nước chủ động. Mọi hình thức vận động dư luận thế giới,
mọi phương pháp gây ảnh hưởng với các nhà lãnh đạo thế giới, phải được
xử dụng tối đa. Nhưng tất thảy, chúng ta phải chủ động. Vì nếu chúng ta
không chủ động, không hy sinh, thì không hy vọng gì thế giới sẽ hành
động thay thế chúng ta; - Và như vậy, cuộc đấu tranh sẽ mất chính
nghĩa. Sau hết, cuộc đấu tranh phải được tổ chức hóa, nhìn rõ mục tiêu
chung, phối hợp kế hoạch, hợp tác trong hành động, hỗ trợ phương tiện,
phải là những chỉ tiêu chung cho mọi tổ chức. Công cuộc đấu tranh dẫu
phải được tổ chức hóa để gia tăng hiệu năng, nhưng không bao giờ biến
thành một thứ độc quyền. Chúng ta phải hoan nghênh mọi cá nhân, mọi
đoàn thể và mọi tổ chức đấu tranh. Phương thức đấu tranh có thể khác
nhau, nhưng mọi đóng góp cho chính nghĩa chung, phải được đề cao, tán
thưởng và ủng hộ. Chúng ta cũng cần phải thận trọng trong việc lựa chọn
phương tiện và biện pháp đấu tranh. Ðể đương đầu với bạo quyền CSHN
hiện nay, võ khí duy nhất là «chính nghĩa quốc gia dân tộc». Chúng ta
phải giữ cho chính nghĩa của dân tộc thực vững vàng và trong sáng. Mọi
phương tiện và mọi biện pháp hành động có thể làm cho chính nghĩa dân
tộc bị lu mờ, hoặc trở thành đáng ngờ vực, đều phải được cương quyết
gạt bỏ. Vì một khi chính nghĩa dân tộc đã không còn được vững vàng,
trong sáng, lập tức cuộc đấu tranh sẽ trở thành vô vọng. «Không có
những con người với tâm hồn trong sáng, cuộc đấu tranh sẽ trở thành
phiêu lưu. Không có những cán bộ có khả năng, cuộc đấu tranh sẽ trở
thành không tưởng».
Vấn
đề kiến thiết xứ sở, một khi đất nước có được tự do, dân chủ thực sự,
chúng ta cũng không nên trông chờ quá vào ngoại viện. Thứ nhất, vì
tương quan thế giới đã thay đổi, các thế lực quốc tế đã hết dùng chính
sách ngoại viện để bành trướng ảnh hưởng; thứ đến, chỉ có chúng ta
người Việt mới thực sự yêu dân tộc Việt mình. Người Việt hải ngoại sẽ
đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong giai đoạn này, giống như kiều
dân Do Thái trong những năm cuối của thập niên 40. Ðiều đáng chú ý là
chúng ta có hàng trăm ngàn chuyên viên ở hải ngoại, thuộc mọi ngành
nghề, được hấp thụ nhiều nguồn văn hóa khác nhau, từ Âu Châu, Mỹ Châu,
đến Úc Châu. Họ là một tài sản quí báu trong công cuộc kiến thết quê
hương. Với khả năng chuyên môn, nếu họ được huấn luyện để trở thành
những người «Việt Nam Mới», với những đức tính: lòng yêu nước nồng nàn,
tinh thần cộng đồng và ý thức trách nhiệm cao độ, đất nước ta sẽ được
tái thiết một cách mau chóng.
Khi
bạo quyền CSHN mạnh, chúng ta đã không run sợ, thì không có lý do gì,
chúng ta lại thỏa hiệp hoặc cầu hòa giữa lúc chúng đang trên đà hấp
hối. Vận hội mới đã khởi đầu, khởi đầu từ tận cùng của đổ vỡ, và như
một chuyển biến của đại khối dân tộc, của mọi tầng lớp dân chúng, liên
tục tranh đấu không ngưng nghỉ từ bao nhiêu năm qua, đang trưởng thành
và lớn mạnh. Thế tất thắng, phải chăng cũng đến từ đó, thế nhân dân
cũng đến từ đó và, thế quốc tế cũng đến từ đó. Câu hỏi được đặt ra cho
mỗi chúng ta, là bao giờ chúng ta phá bỏ được cơ chế và chủ nghĩa CS
đang thống trị trên quê hương. Câu trả lời, còn tuỳ thuộc rất nhiều yếu
tố. Nhưng quan yếu vẫn là, mỗi chúng ta phải tôi luyện cho mình một ý
chí sắt thép, một niềm tin không đổi dời với lý tưởng cứu nước và con
đường đấu tranh trước mặt; cũng như trong bao lâu, chúng ta triệt để
khai thác được ưu thế của ta và những nhược điểm của kẻ thù. Bao giờ
CSHN bị loại bỏ? Câu trả lời rất lạc quan khi ta nhìn vào tiền đồ sức
mạnh của dân tộc, vào khối thuốc nổ của hờn căm nội địa. – Và, đặc
biệt, nhìn vào chính tâm hồn ta trước ý thức và trách nhiệm đối với dân
tộc, vào sự giác ngộ và sức đề kháng của toàn dân dưới gông cùm của kẻ
thống trị tàn bạo CSHN hiện nay. Xin thưa rằng:
- Chúng ta đang trải qua giai đoạn cuối của một chặng đường lịch sử dân tộc qua hai phần ba thế kỷ đen tối và đau khổ.
- Chúng ta đang sống trong một thế giới chuyển biến mau chóng trên mọi phuơng diện.
-
Chúng ta đang đứng trước sự thách đố của một thiểu số, dùng bạo lực để
có quyền hành và dùng bạo lực để bảo vệ quyền hành, cản trở bước tiến
của dân tộc.
-
Chúng ta ý thức rằng muốn giải cứu quê hương khỏi chậm tiến, lạc hậu,
trước hết phải giải cứu quê hương khỏi độc tài chuyên chế CSHN hiện nay.
-
Cho nên, hơn khi nào hết, vì tương lai dân tộc và vì vinh quang của tổ
quốc, chúng ta kiên định lập trường dân tộc, dân chủ và nhân bản. Chúng
ta muốn đất nước thay đổi trong hòa bình, nhưng chúng ta không nhu
nhược, không lùi bước trước bất cứ một cản lực nào làm hại đến tương
lai của dân tộc.
- Dân tộc ta nhất định thắng lợi, vì chúng ta có chính nghĩa, vì nhân loại đứng về phía chúng ta.
- Tình trạng bi thảm của dân tộc hiện nay, đang thôi thúc chúng ta phải dấn thân và đoàn kết thực sự để giải cứu quê hương.
-
Ngày nào bạo quyền CSHN còn tồn tại, ngày ấy dân tộc ta còn đầy khổ
đau, còn sống trong vũng lầy đen tối, không nhìn thấy tương lai. Lương
tâm của chúng ta, trách vụ của chúng ta đối với sự sống còn của đất
nước không cho phép chúng ta đang tâm để cơn đại nạn của dân tộctiếp
tục kéo dài. Chúng ta phải đoàn kết lại. Chúng ta phải tích cực đấu
tranh. Tinh thần đoàn kết, ý chí quyết thắng của chúng ta là những yếu
tố cần thiết thúc đẩy sức mạnh vô biên của toàn dân thành làn sóng cách
mạng dân tộc, dân chủ, đập tan guồng máy chuyên chính bạo tàn CSHN.
- Cuộc chiến đấu của toàn dân ta nhất định thắng lợi