Lê Minh Phiếu và Dương Danh Huy (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông)
Ngày
nay Việt Nam đang đối diện với tham vọng mở rộng lãnh thổ xuống phương
Nam của Trung Quốc. Cùng với những đòi hỏi và những hành động đối với
Hoàng Sa, Trường Sa, Trung Quốc còn thể hiện quyết tâm đòi hỏi gần như
toàn bộ Biển Đông. Phần Biển Đông mà họ đòi hỏi nằm trong các đường
gạch nối trên Biển Đông, được đưa ra đầu tiên vào năm 1947, có hình chữ
U hay hình lưỡi bò và do vậy thường được gọi là “đường lưỡi bò” hay
“ranh giới lưỡi bò”. Phần diện tích trong đường lưỡi bò này chiếm
khoảng 75% diện tích trên Biển Đông, để lại khoảng 25% cho tất cả các
nước Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, và Việt Nam, tức mỗi
nước được trung bình 5%.Chủ trương tiến công trên biển có một
không hai trong lịch sử thế giới này xâm phạm nghiêm trọng đến chủ
quyền trên biển của Việt Nam. Nó đe doạ trầm trọng đến kinh tế, giao
thông, quốc phòng không chỉ cho thế hệ chúng ta mà còn cho muôn vàn thế
hệ sau. Có thể nói chủ trương này nguy hiểm không kém bất cứ chủ trương
nào của Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử giằng co giữa hai nước
Việt Nam và Trung Quốc hàng nghìn năm qua.Năm 1992, Trung Quốc
ký hợp đồng thăm dò vùng Tư Chính – Vũng Mây với công ty Crestone. Năm
2007, Trung Quốc đưa ra quy định theo đó tất cả bản đồ Trung Quốc phải
vẽ ranh giới lưỡi bò này. Cũng năm 2007, Trung Quốc áp lực tập đoàn dầu
khí BP phải ngưng hợp tác với Việt Nam trong hai vùng dầu khí Mộc Tinh,
Hải Thạch.Năm 2008, Trung Quốc vẽ ranh giới lưỡi bò vào bản đồ
rước đuốc Olympic và Paralympic, nhưng sau đó gỡ ra khỏi bản đồ rước
đuốc Olympics trên trang web chính thức sau khi có tiếng nói phản đối
từ phía Việt Nam gửi đến Chủ tịch Ủy ban Olympic Quốc tế. Tháng 7 năm
2008, Trung Quốc áp lực ExxonMobil không được hợp tác với Việt Nam
trong vùng biển hợp pháp của Việt Nam. Tháng 11 năm 2008, Công ty Dầu
khí Hải dương Trung Quốc công bố dự án có vốn 29 tỷ USD để khảo sát và
khai thác trên Biển Đông.Những sự kiện trên cho thấy sự quyết tâm và leo thang của Trung Quốc trong việc thực hiện chủ trương đó.Các
vạch đỏ là ranh giới lưỡi bò Trung Quốc đòi hỏi. Các đường xanh là một
cách chia các vùng đặc quyền kinh tế dựa trên UNCLOS, nhưng không chia
các đảo đang bị tranh chấp. Các vòng tròn xanh lá cây là lãnh hải 12
hải lý của các đảo này.Trước một chủ trương “không thể chấp
nhận được” như vậy, Việt Nam phải đối phó thế nào? Câu trả lời đầu tiên
là, mặc dù các biện pháp chống trả hẳn phải khác với trong quá khứ,
chúng ta phải chống trả với một sự tích cực không kém tổ tiên chúng ta.
Chống trả có thể bao gồm phương cách nhu, nhưng không được nhu nhược.Tất
nhiên, về cơ bản và lâu dài, Việt Nam phải có nền kinh tế và quốc phòng
vững mạnh. Việc xây dựng kinh tế và quốc phòng là điều cơ bản nhất để
bảo vệ đất nước. Nhưng đây cũng là nhiệm vụ mang tính dài hạn, cốt yếu
trong bất kỳ hoản cảnh nào, thời đại nào, không chỉ khi có tranh chấp
trên Biển Đông. Vì thế, chúng tôi xin đưa ra một số vấn đề cụ thể khác
mà có thể bắt đầu ngay từ bây giờ.Cần một tư duy Biển ĐôngỞ
Trung Quốc, sau thất trận ở phương Nam dưới thời Lê Lợi, nhà Minh lâm
vào khủng hoảng kinh tế. Các Nho thần bảo thủ thời ấy bèn viện dẫn lời
đức Thánh Khổng là “cha mẹ còn tại thế mà mình đi xa thì là bất hiếu!”
mà nói rằng chẳng có lý do gì khiến ta phải bành trướng ra ngoài, mà
giong buồm ra biển. Kết cục, sau khi Trịnh Hoà qua đời và được thủy
táng trong chuyến hải hành thứ bảy, Minh Tuyên Đức ra lệnh cấm đóng tầu
viễn dương, không ai được có tàu có quá ba cột buồm. Từ cái lệnh gọi là
“hải cấm” ấy, từ giữa thế kỷ 15 trở đi Trung Quốc bế môn tỏa cảng và
thu vét phương tiện phòng thủ để chỉ là cường quốc lục địa, không có tư
duy hải dương.Sau khi họ bị các nước khác tấn công từ biển và
sau khi bị Nhật thôn tính một số đảo, tư duy hải dương của Trung Quốc
đã ra đời. Nhờ có tư duy này, ở Biển Đông, đến nay Trung Quốc vượt trội
ta về ý thức, đội ngũ nghiên cứu, tính nhất quán và sự tích cực.Trong
khi đó, cho tới gần đây, nói chung chúng ta vẫn chỉ nhắc tới Hoàng Sa,
Trường Sa, mặc dù những đòi hỏi của Trung Quốc trên Biển Đông liên quan
đến cả những vùng biển nằm ngoài tầm ảnh hưởng của Hoàng Sa và Trường
Sa theo Công ước Liên hợp quốc về luật biển. Nói cách khác, có nhiều
đòi hỏi của Trung Quốc trên Biển Đông không liên quan đến Hoàng Sa và
Trường Sa.Vì thế, chúng ta phải tích cực xây dựng xây dựng một
tư duy Biển Đông. Từ đó, phải có một đội ngũ hùng hậu nghiên cứu các
vấn đề liên quan đến biển, chiến lược biển, xây dựng một ý chí quốc
gia, nâng cao ý thức và kiến thức về Biển Đông.Chiến lược ngoại giao và truyền thôngLà
nước nhỏ, trong chiến lược của chúng ta phải tận dụng biện pháp ngoại
giao. Tuy không nên tin rằng nếu Trung Quốc đánh chiếm một số đảo của
Việt Nam thì sẽ có nước nào đó giúp chúng ta, nhưng phải nhìn nhận là
ngoại giao có trọng lượng trên bàn cân “đánh hay không” của Trung Quốc.
Chúng ta phải tăng tối đa trọng lượng này.Trong chiến lược
ngoại giao của ta phải có quyền lợi gì cho các nước khác. Tốt nhất là
chiến lược ngoại giao của chúng ta có khía cạnh giúp những nước khác
giành cho họ những quyền lợi không phải của ta.Hơn nữa, việc
tuyên truyền và thu hút sự quan tâm trên phương diện quốc tế cũng vô
cùng quan trọng cho việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. Mặc dù có cơ sở
rất yếu về phương diện lịch sử và pháp lý đồi với quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, Trung Quốc đã và đang tiến hành công cuộc tuyên truyền về
chủ quyền của họ đối với quần đảo này.Dù yêu sách đưỡng lưỡi bò
của họ hoàn toàn vô lý, và mặc dù việc Trung Quốc tiến hành thăm dò và
khai thác trên khu vực này là “không thể chấp nhận được”, phần lớn các
hãng tin quốc tế, khi đưa tin về dự án này, đã không đả động gì tới
thực tế là vùng biển này đang bị tranh chấp.Vì vậy, bằng con
đường truyền thông và ngoại giao, cần vận động sự quan tâm và ủng hộ
của dư luận quốc tế cho một giải pháp công bằng và hoà bình cho các
tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Quốc tế sẽ ủng hộ chúng ta khi thấy
công lý và lẽ phải thuộc về chúng ta, cũng như thấy được quyền lợi của
họ từ những giải pháp công bằng và hòa bình đó.Đường lưỡi bò
của Trung Quốc xâm phạm đến chủ quyền của các nước khác trong ASEAN. Do
vậy, trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam cần phải tận dụng ưu thế thành
viên của mình để vận động cho một tiếng nói chung, dựa trên những
nguyên tắc mà Quỹ Nghiên cứu Biển Đông đã đề ra và đăng trên Thời báo
Manila (Philippines). Ngoài ra, trong việc hội nhập ASEAN cũng như
trong việc xây dựng Cộng đồng Kinh tế Đông Á, Việt Nam cần phải giữ thế
chủ động.Phương diện pháp lýTrong
thế giới văn minh hiện nay, pháp luật đã trở thành nền tảng cho ứng xử
giữa các quốc gia. Việt Nam, là nước nhỏ, cần phải tận dụng phương tiện
và lý luận luật pháp để bảo vệ chủ quyền của mình. Việt Nam cần đào tạo
và huy động các chuyên gia luật quan tâm và tham gia vào việc bảo vệ
chủ quyền trên Biển Đông.Đi vào một số chi tiết, đối với Hoàng
Sa, Trường Sa, những sự kiện lịch sử trước năm 1954 đã xác lâp chủ
quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này theo công pháp quốc tế.
Theo giáo sư luật quốc tế người Pháp Monique Chemillier-Gendreau, các
lập luận của Trung Quốc dựa trên những sự kiện lịch sử trước thế kỷ 20
đều không có giá trị trên diện công pháp quốc tế[1]. Đối với Hoàng Sa,
các lập luận của Trung Quốc trước năm 1954 thua kém lập luận của Việt
Nam[2]. Đối với Trường Sa, lập luận của Trung Quốc không có cơ sở pháp
lý và chỉ biện hộ cho chính sách mở rộng lãnh thổ trên biển[3].Trong
thời kỳ 1954 – 1975, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã không có một
hiệp định biên giới nào ký với Trung Quốc liên quan đến Biển Đông, mà
chỉ có những tuyên bố đơn phương.GS Monique Chemillier-Gendreau
cho rằng những tuyên bố đơn phương này không có hiệu lực vì lý do thẩm
quyền lãnh thổ và vì lý do hoàn cảnh chiến tranh[4].Mặc khác,
nếu như bỏ qua lập luận trên thì, theo luật quốc tế, không có một
nguyên tắc pháp lý nào có thể làm cho những lời tuyên bố đơn phương có
một tính chất ràng buộc, ngoại trừ nguyên tắc “estoppel”[5]. Nhưng,
theo TS Từ Đặng Minh Thu, những tuyên bố đó không hội đủ các điều kiện
và các yếu tố mà nguyên tắc estoppel đòi hỏi[6]. Do đó chúng không ảnh
hưởng tới chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.Như
vậy, theo các lập luận trên, đối với thời kỳ 1954 – 1975, không tồn tại
một quy tắc pháp lý nào làm cho Việt Nam mất chủ quyền đối với Hoàng
Sa, Trường Sa mà Việt Nam đã có trước 1954.Dẫu sao, các nhà
luật học Việt Nam cũng nên nghiên cứu thêm về học thuyết estoppel và về
những nguyên tắc pháp lý khác có thể được áp dụng cho các sự kiện trong
thời kỳ 1954-1975. Trong thời gian đó, Việt Nam cũng phải chống lại
việc Trung Quốc lợi dụng những sự kiện này để tuyên truyền.Đối
với các vùng biển không thuộc về Hoàng Sa hay Trường Sa, ranh giới lưỡi
bò đe doạ chủ quyền của Việt Nam ở ngay cả những vùng biển không liên
quan tới những vùng này. Việt Nam cần phải tách vấn đề chủ quyền đối
với những vùng biển này ra khỏi tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa để:(1) Trung Quốc không thể dùng tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa để nguỵ trang cho ý đồ lưỡi bò của họ;(2) chúng ta có thể thực thi chủ quyền đối với những vùng biển này trong khi Hoàng Sa, Trường Sa còn bị tranh chấp; và(3)
nếu chủ quyền trên những vùng biển này đã được giải quyết thì sức ép về
việc giải quyết tranh chấp đối với Trường Sa và Hoàng Sa sẽ giảm xuống
rất nhiều.Phát huy sức mạnh của toàn dân tộcTrong
hơn 60 năm qua kể từ khi Trung Quốc công bố bản đồ lưỡi bò khoanh 75%
Biển Đông một cách mập mờ vào năm 1947 cho tới nay, chưa bao giờ Việt
Nam phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc trong việc bảo vệ chủ quyền
trên Biển Đông. Đây là một thiệt thòi tương tự như việc chiến đấu trong
khi một tay bị buộc sau lưng.Trong hoàn cảnh hiện nay, dân tộc
Việt Nam cần phải vượt qua những cách biệt và Nhà nước cần phải tạo
điều kiện để phát huy sức mạnh của toàn dân trong việc đấu tranh chống
lại những hành động “không thể chấp nhận được” từ phía Trung Quốc. Ngày
9/12/2008, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nhấn mạnh tại Hội nghị Quân chính
toàn quân: “Phải tiếp tục làm cho toàn quân, toàn dân nhận thức đầy đủ
hơn về mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam XHCN trong điều kiện
mới.”[7]Để có thể phát huy sức mạnh của toàn dân, cần phải có
một Quy tắc ứng xử chung về Biển Đông giữa Nhà nước và nhân dân và giữa
các cộng đồng người Việt Nam với nhau. Quy tắc này không cần phải là
luật, chỉ cần là một thoả thuận bất thành văn, được nhiều cá nhân và
hội nhóm công khai tôn trọng.Nếu không có một quy tắc ứng xử
chung về Biển Đông cho dân tộc Việt Nam, dù quy tắc đó chỉ là một sự
thông cảm bất thành văn, thì nhân dân và Nhà nước Việt Nam sẽ tiếp tục
chiến đấu trong tình trạng một tay bị buộc chặt sau lưng, trong khi
Trung Quốc càng ngày càng tiến xa, tiến mạnh với yêu sách và hành động
để biến 75% Biển Đông thành “biển lịch sử” của họ.***Ngày
nay Việt Nam đứng trước một sự đe doạ khổng lồ. Khác với trong quá khứ,
sự đe doạ này tiến triển rất chậm, nhưng càng ngàng càng nghiêm trọng,
qua nhiều thập niên, có thể nói là cả thế kỷ. Nhiều khi sự đe doạ này
rất nhẹ nhàng, dường như không có, nhiều khi có những động thái phi bạo
lực, tương đối ít khi tiến tới bằng bạo lực. Nhưng chúng ta đừng để sự
nhẹ nhàng, chậm rãi này làm chúng ta coi thường hay thờ ơ. Nếu sự đe
doạ này đi tới đích của nó thì hậu quả cho đất nước sẽ vô cùng trầm
trọng và có thể sẽ vĩnh viễn. Chúng ta phải tích cực chống lại sự đe
doạ này với một sự tích cực không kém gì tổ tiên ta đã từng giữ nước.[1]
Monique Chemillier-Gendreau, “Sovereignty over the Paracel and Spratly
Islands”, Kluwer Law International, ISBN 9041113819, 2000, trang 80, có
thể đọc tại http://books.google.co.uk/books?id=58q1SMZbVG0C&pg=PP1[2] Monique Chemillier-Gendreau, sách đã dẫn, trang 136.[3] Monique Chemillier-Gendreau, sách đã dẫn, trang 139.[4] Monique Chemillier-Gendreau, sách đã dẫn, trang 130.[5] Từ Đặng Minh Thu, http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai11/200711_TuDangMinhThu.htm[6] Từ Đặng Minh Thu, tài liệu đã dẫn.[7] http://vietnamnet.vn/chinhtri/2008/12/817741/Nguồn: http://www.minhbien.org/?cat=9
|