Làm
tăng nhu cầu cho các ngành kinh tế (kích cầu kinh tế) là phương thuốc
có tính kinh điển luôn được nghĩ đến khi một nền kinh tế mắc căn bệnh
suy thoái. Mục đích của kích cầu kinh tế có biểu hiện bên ngoài là nhằm
vực dậy các nghành sản xuất nội địa, tạo thêm việc làm cho dân chúng để
nhắm đến một mục tiêu chính yếu và lâu dài là duy trì và tiếp tục nâng
cao đời sống của người dân nói riêng và phúc lợi xã hội nói chung. Vì
vậy mọi chính quyền hay nhà nước có chế độ chính trị khác nhau từ trước
đến nay đều vận dụng phương thuốc kích cầu kinh tế bằng cách tăng cường
đầu tư, trợ giúp bằng nguồn tài chính của nhà nước (ngân sách, vốn huy
động do nhà nước) cho nền kinh tế đang suy thoái. Cuộc đại khủng hoảng
kinh tế 1929, Kế hoạch Marshall (Kế hoạch phục dựng châu Âu) sau chiến
tranh thế giới II, cuộc khủng hoảng tài chính tại Đông Nam Á 1997 và
đến cuộc khủng hoảng kinh tế hiện tại đều xuất hiện ngay những chương
trình đại cứu trợ hay đại đầu tư của nhà nước như chương trình kích cầu
New Deal của Franklin D. Roosevelt trị giá hàng chục tỷ USD vào những
năm 1933, 1935 hay các gói cứu trợ khẩn cấp trị giá hàng trăm, hàng
ngàn tỷ USD đang diễn ra khắp thế giới hiện nay.
Tuy nhiên,
đằng sau những con số ấn tượng đó là một yếu tố ít được chú ý nhưng lại
có vai trò quyết định cho thành công của các chương trình kích cầu kinh
tế là sự giám sát chặt chẽ các cơ quan công quyền – những cơ quan sẽ
triển khai và quản lý trực tiếp các chương trình kích cầu. Quan sát các
xã hội đã có các chương trình kích cầu kinh tế thành công (đời sống xã
hội giàu hơn, công bằng hơn và bền vững hơn sau khủng hoảng) như Hàn
Quốc, Đài Loan, Mỹ, Tây Đức (cũ),.. có thể thấy tính giám sát các cơ
quan công quyền chỉ được thực hiện hiệu quả khi có sự độc lập trong ba
nghành quyền lực của hệ thống công quyền là lập pháp (quốc hội), hành
pháp (chính phủ) và tư pháp (các cơ quan tư pháp và hệ thống tòa án)
cùng với sự độc lập của báo chí.
Sự độc lập giữa ba ngành
quyền lực của hệ thống công quyền có ý nghĩa tạo ra sự tự giám sát lẫn
nhau ngay trong hệ thống. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, vì quyền lực luôn
có tính kiêu ngạo và tha hóa dẫn đến những sai lầm hay thông đồng nhằm
trục lợi cá nhân dưới những vỏ bọc rất chính đáng, vì thế vẫn cần một
sự độc lập khác để giám sát cả hệ thống công quyền, đó chính là tính
độc lập của báo chí. Thực tế đã cho thấy, nếu những người chuyên nghề
săn tìm tin tức (phóng viên) không được tự do tiếp cận, tìm hiểu đầy đủ
các thông tin hay không thể (vì không được phép hoặc bị đe dọa) phản
ánh mọi nghi vấn, thắc mắc về hoạt động của các cơ quan công quyền thì
các đại biểu quốc hội hay mọi cơ quan giám sát chắc chắn cũng không thể
có đủ thông tin để giám sát. Khi đó việc giám sát của xã hội, của người
dân đối với các cơ quan công quyền là điều không thể, dù có cải cách
hay lập ra nhiều hơn nữa các cơ quan giám sát cũng vô ích. Vì lẽ đó,
nhân dân các nước đã phát triển dẫu có trải qua nhiều biến loạn chính
trị hay suy thoái kinh tế cũng không bao giờ chấp nhận để mất tính độc
lập của báo chí và mất tính độc lập của ba nghành quyền lực trong hệ
thống công quyền. Sự đảm bảo chắc chắn cho các tính độc lập này chính
là hệ thống chính trị dân chủ thừa nhận các quyền tự do căn bản của
người dân về tự do báo chí (được ra báo tư nhân), về tự do hội họp,
sinh hoạt cộng đồng, và tự do chính trị (được lập các đảng phái khác
nhau),...
Thực trạng bi quan tại Việt Nam
Đối với
Việt Nam hiện nay, tình hình suy giảm kinh tế đang ngày càng rõ hơn với
nhiều dấu hiệu trầm trọng khó lường. Lần đầu tiên Chính phủ Việt Nam đã
phải đưa ra dự báo « tiêu cực » về số người sẽ mất việc đến hàng trăm
nghìn trong năm 2009. Lần đầu tiên Chính phủ Việt Nam công bố gói kích
cầu kinh tế 06 tỉ USD (tăng 06 lần so với dự kiến ban đầu). Bên cạnh
những an tâm, vui mừng của một số người đối với gói kích cầu 6 tỉ USD
của Chính phủ, là rộ lên sự lo lắng, băn khoăn của nhiều chuyên gia tài
chính, kinh tế và những người quan tâm về các vấn đề như nguồn tiền lấy
từ đâu, kích cầu vào đâu, kích như thế nào,...có cả những quan ngại
thẳng thắn về «giậu đổ, bìm leo» hòng «xin rót tiền» vào «túi ai đó».
Những thông tin đó cho thấy việc kích cầu đê cứu nền kinh tế Việt Nam
tránh khỏi khủng hoảng và suy thoái không chỉ là mong muốn của người
dân mà còn là quyết tâm chính trị của những người đang lãnh đạo đất
nước, vì bất kể nhà lãnh đạo nào (dù độc đoán đến mấy) cũng không muốn
có một nền kinh tế khủng hoảng, vượt khỏi tầm kiểm soát.
Tuy
nhiên, tính giám sát các cơ quan công quyền của Việt Nam hiện đang rất
yếu vì cả ba nghành quyền lực công đều nằm dưới sự chỉ đạo của một đảng
chính trị (Đảng Cộng sản Việt Nam) và các cơ quan công quyền gần như
hoàn toàn nằm ngoài sự giám sát của dân chúng, do báo chí thiếu tính
độc lập (cũng do Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo). Đó chính là vật cản
chủ yếu cho các quyết tâm của lãnh đạo nhằm thực hiện hiệu quả kích cầu
để cứu nền kinh tế.
Một vài điểm cụ thể sẽ thấy gói 06 tỉ USD
đang rất đơn độc trước sự nhăm nhe của nhiều lợi ích cục bộ và cá nhân
đang vây quanh. Theo hành trình luật pháp và kinh nghiệm của thế giới,
quá trình hình thành một chính sách của Chính phủ phải được dựa trên
các nghiên cứu, trao đổi, tích hợp giữa các cơ quan của Chính phủ và
các tổ chức, cá nhân tư vấn độc lập (trong hoặc ngoài nước). Tiếp theo,
chính sách đó phải được đưa qua Quốc hội (cơ quan đại diện tối cao của
dân) để thẩm định và nhận quyết định (thông qua hoặc đề nghị sửa đổi
hoặc bác bỏ). Sau đó, nếu được thông qua sẽ là một quá trình triển khai
dưới sự theo dõi của các cơ quan giám sát. Tất cả các quá trình đó đều
phải được soi rọi thường trực qua hệ thống báo chí tự do luôn theo sát
và cập nhật liên tục thông tin cho công chúng. Với tình hình Việt Nam
hiện nay có thể thấy mọi yếu tố vừa kể đều yếu hoặc không có. Nhân sự
của cơ quan công quyền đang phải chịu hội chứng « chảy máu chất xám »
từ nhiều năm qua. Có những khuyến cáo của các tổ chức tư vấn rất uy tín
và thân thiện như Havard Kennedy School
cũng chưa được đón nhận nhiệt tình thì nói gì đến các chuyên gia tư vấn
độc lập người Việt Nam và Việt kiều! Trong khi Quốc Hội vẫn chưa dám
lên tiếng về vấn đề tối thiêng liêng của đất nước là lãnh thổ quốc gia
đang bị Trung Quốc xâm lấn hoặc đã phải nhấn nút chấp thuận cho Thăng
Long-Hà Nội kéo lên tận Hòa Bình thì khó có thể hy vọng Quốc hội có đủ
dũng khí trong vấn đề kinh tế. Và đến nay ít ai còn dám lạc quan tin
vào các cơ quan giám sát của Chính phủ hay của Đảng Cộng sản Việt Nam
khi mọi vụ tham nhũng lớn đã phát hiện đều do người dân tố giác và dư
luận vẫn chưa hết «bàng hoàng» sau khi một loạt các nhà báo và cơ quan
điều tra chống tham nhũng bị trừng phạt trong vụ PMU18.
Giải pháp là kích cầu chính trị
Tuy
nhiên, sẽ không quá bi quan khi dám nhìn thẳng vào thực tế để giải
quyết từng bước vì đã có những chuyện tưởng chừng không thể nhưng đã là
những thành tựu của xã hội lần đầu tiên đạt được tại «Thái Hà», «Khâm
Sứ», «19-12» và ngay cả các chế độ chính trị dân chủ trưởng thành cũng
đang phải tăng cường, hoàn thiện các thiết chế giám sát sau các vụ bê
bối như « Subprime » (bản chất là quá tin tưởng tới mức mất sự giám sát
thông tin khi đầu tư bất động sản), vụ Madoff hay vụ lừa đảo tại
Société Générale (bản chất cũng là đặt niềm tin thiếu giám sát),... Như
vậy, nếu nhìn với con mắt lạc quan như mong muốn thường có để chuẩn bị
đón một mùa xuân mới sắp đến, giải pháp hiệu quả cho các vấn đề kinh
tế, xã hội trầm trọng của Việt Nam hiện nay không phải là vấn đề khó
tìm, đó chính là một quyết tâm cải cách hệ thống chính trị độc đảng
từng bước sang hệ thống chính trị đa đảng – dần thừa nhận mọi quyền tự
do thông tin, tự do chính trị,... cho người dân. Đó chính là nhu cầu
chính trị cho một nền kinh tế hiệu quả, một xã hội phát triển bền vững
trên tình thân ái, đủ để chủ động đối phó với mọi cuộc suy thoái kinh
tế hay chèn ép của ngoại bang.
Nói theo ngôn ngữ kinh tế, giải
pháp cơ bản hiện nay chính là phải kích cầu chính trị cho xã hội Việt
Nam, làm cho mọi tầng lớp dân chúng thấy rõ và thể hiện khát khao sở
hữu một hệ thống chính trị dân chủ có những ưu việt hơn hẳn hệ thống
chính trị độc đảng hiện thời. Dĩ nhiên, kích cầu chính trị cũng có
những cách khác nhau và nó cũng có độ trễ về hiệu quả như một số kích
cầu kinh tế. Do đó, kích cầu chính trị chính là điều cần phải thúc đẩy
song hành với những lo lắng, ưu tư hiện nay về kinh tế của Việt Nam.
Phạm Hồng Sơn
12/01/2009 (Giáp Tết Kỷ Sửu)