|
|
Nhà nước quanh co giữa Bản Giốc và Ải Nam Quan
Trước
Tết Ký Sửu, đảng Cộng sản Việt Nam có hai hành động làm nhục Tổ Quốc và
muối mặt Nhân Dân mà vẫn nghĩ là mình sáng suốt, là đỉnh cao.
Thứ
nhất là việc đảng đã đặt mình vào vòng cương toả của Tàu
một-trăm-phần-trăm; thứ hai là quyết định đặc xá cho những kẻ tham
nhũng để sỉ nhục những ai còn muốn làm sạch đảng để cứu nước.
Việc
thứ nhất thể hiện qua ngôn ngữ trơ trẽn của Phạm Gia Khiêm, Bộ trưởng
Ngoại giao khi hết lời ca ngợi việc hoàn tất cắm mốc phân chia biên
giới giữa Tàu và Việt Nam ngày 31-12-2008, căn cứ theo Hiệp định năm
1999.
Ông Khiêm nói: “Kết quả trên có được trước hết là nhờ sự
quan tâm và chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo cấp cao hai Ðảng và hai Nhà
nước; những nỗ lực không mệt mỏi của hai Ðoàn đàm phán cấp Chính phủ;
sự cố gắng vượt bậc của các lực lượng phân giới cắm mốc thuộc các Bộ,
ngành, địa phương và đông đảo đồng bào dân tộc các tỉnh biên giới của
chúng ta đã vượt qua bao khó khăn gian khổ để bảo đảm tiến độ phân giới
cắm mốc. Ðó cũng là sự hội tụ công lao, đóng góp của nhiều thế hệ đi
trước, sự đồng tình và ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong nước và
kiều bào ta ở nước ngoài; là thành quả của tinh thần độc lập tự chủ,
nắm vững và vận dụng hiệu quả luật pháp quốc tế, tiếp thu kinh nghiệm
giải quyết hoà bình các tranh chấp về biên giới lãnh thổ của các nước
khác”.
Trước hết, không có “thế hệ đi trước” nào của tổ
tiên người Việt đã đóng góp vào âm mưu dâng đất cho Tàu của đảng CSVN.
Từ ngàn xưa, lịch sử Việt Nam đã viết rõ như ban ngày:” Nước Việt Nam
chạy dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau", và những kẻ cấm quyền trong
đảng CSVN, từ Hồ Chí Minh trở xuống và con cháu họ, cũng đã học thuộc
lòng như thế qua nhiều thế hệ. Thế mà ngày nay, sau khi phải chịu sức
ép không cưỡng nổi của Bắc Phương để bảo vệ quyền lợi cá nhân, phe đảng
mà đảng CSVN đã phải gạch bỏ mấy chữ “Ải Nam Quan” và chỉ nói tỉnh Cao
Bằng là cái đấu của nước ta !
Thứ đến, cũng chẳng làm gì có chuyện như ông Khiêm bịa đặt rằng việc làm bán đất của họ đã được “sự đồng tình và ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài”.
Cả
dân tộc, trong và ngoài nước là chủ nhân của đất nước, nhưng nhúm 3
triệu đảng viên đảng CSVN đã tiếm dụng đặc quyền này để coi đất nước là
của riêng mình, cam tâm qùy phục trước áp lực để dâng đất, nhượng lãnh
hải cho Tàu phương bắc qua hai Hiệp định 1999 và 2000.
Nhân dân
trong nước và cộng đồng người Việt ở ngoài nước đã bị đảng coi thường,
bị “bịt mắt bắt dê”, từ chối mọi yêu cầu công khai hai Hiệp định để cho
dân kiểm chứng. Cả cái Quốc hội bù nhìn, tay sai của đảng cũng đã nhắm
mắt thông qua Nghị quyết công nhận Hiệp định biên giới 1999 , dù không
được đảng cho đọc một chữ và cũng chẳng biết hình dạng của biên giới
bây giờ ra sao !
Cả dân tộc bị đảng Cộng sản gạt ra ngoài hành
lang pháp lý để cho một thiểu số lãnh đạo được tự do tung tác buôn bán,
đổi chác đất của Tổ tiên.
Sự sợ hãi, khiếp nhược của đảng CSVN
đã rõ như thế mà vào ngày 1-1-2009, Vũ Dũng, Thứ trường Ngoại giao,
trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam –
Trung Quốc vẫn còn trâng tráo: "Chủ quyền lãnh thổ là vấn đề mang tính
nguyên tắc, không thể nhân nhượng. Do lịch sử để lại, có những khu vực
quá canh, quá cư, Hai đoàn đàm phán đã nhất trí linh hoạt điều chỉnh
trên cơ sở cân bằng lợi ích. Vì vậy, không thể có chuyện “Việt Nam mất
đất”, “cắt đất” cho nước này, nước kia như một số mạng nước ngoài đưa
tin. Chỉ có thể giải thích rằng những mạng này hoặc do thiếu thông tin
hoặc cố tình làm sai lệch thông tin vì những ý đồ khác nhau". (VietNamNet, ngày 02/01/2009)
Riêng
về thác Bản Giốc, ông Dũng nói với báo chí của nhà nước: “Tại thác Bản
Giốc, thác cao và là thác phụ hoàn toàn thuộc Việt Nam, với thác chính
hai bên thoả thuận đường biên giới đi từ mốc 53 cũ, qua cồn Pò Thoong,
đến điểm giữa của mặt thác chính, sau đó tiếp tục đi theo dòng chảy
chính của sông Quây Sơn. Tại cửa sông Bắc Luân, đường biên giới bắt đầu
từ thượng lưu bãi Tục Lãm đến điểm đầu của đường phân định Vịnh Bắc Bộ.
Với việc hoàn thành phân giới khu vực cửa sông này, Việt Nam và Trung
Quốc đã xác định xong đường biên giới hoàn chỉnh dài hơn 1400km từ Tây
sang Đông, nối tiếp với đường phân định trong Vịnh Bắc Bộ. Việc giải
quyết hai khu vực này là phù hợp với luật pháp quốc tế, với Hiệp ước
1999 và về cơ bản đã đáp ứng được quan tâm của cả hai bên.
Hai
bên thoả thuận không xây dựng các công trình nhân tạo tại khu vực thác
Bản Giốc để bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và môi trường sinh thái ở khu
vực này, đồng thời nhất trí xem xét hợp tác khai thác tiềm năng du lịch
và sẽ ký Thoả thuận cấp Chính phủ về vấn đề này. Hai bên cũng thoả
thuận sẽ thiết lập khu vực tự do đi lại cho tàu thuyền của cư dân biên
giới tại khu vực cửa sông Bắc Luân và ký một thoả thuận cấp Chính phủ
quy định các nội dung cụ thể liên quan. Hai bên cũng đồng ý sẽ tổ chức
lễ mừng công hoàn thành PGCM (phân giới cắm mốc) tại khu vực cửa khẩu
Hữu Nghị (Lạng Sơn, Việt Nam) và Hữu Nghị Quan (Quảng Tây, Trung Quốc)
vào thời gian thích hợp trong năm 2009.”
Về Ải Nam Quan, ông
Dũng biện bạch theo cách nói của phường chèo: “Về khu vực Hữu nghị
quan: Theo các tài liệu lịch sử đang được lưu giữ, Trấn Nam Quan hay
còn gọi là Ải Nam Quan đều nằm bên phía Trung Quốc, đường biên giới nằm
phía nam Trấn Nam Quan. Theo “Đại Nam Nhất thống chí, Trấn Nam Quan
được xây dựng từ thời nhà Minh; sau đó, đời Nhà Thanh cho tu bổ lại vào
năm 1726. Dấu tích lịch sử quan trọng của khu vực cửa khẩu Hữu nghị là
mốc 19 cũ do Pháp - Thanh cắm năm 1894. Vừa qua ta và Trung Quốc đã
tiến hành cắm mốc 1117 trùng với vị trí mốc 19 cũ, đường biên giới đi
qua Km số 0, mốc 19 cũ đến điểm cách điểm nối ray hiện tại 148m. Như
vậy có thể khẳng định đường biên giới tại cửa khẩu Hữu nghị vừa được
PGCM là phù hợp với lịch sử và thực tiễn quản lý ở khu vực này.”
(Báo điện tử Đảng CSVN, ngày 05/01/2009)
Khi còn làm
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao, ông Dũng đã cố cãi lý như thế khi bị đông
đảo trí thức và cựu đảng viên còn tâm huyết trong nước và người Việt
ngoài nước lên án đảng cắt đất, nhượng biển cho Tàu trong 2 Hiệp định
về đất liền (năm 1999) và lãnh hải (năm 2000).
Lập luận cũa ông
Dũng ngay lập tức bị nhà báo Bùi Tín, người biết Dũng quá nhiều và đang
tị nạn ở Pháp, phản ứng quyết liệt trong một bài viết: “Trước hết tôi
tin là ta mất đất. Mất cả ở vùng Ải Nam Quan, cả ở vùng Bản Giốc. Trước
hết đó là 2 vùng không xa lạ với tôi. Đã có nhiều lần hồi trẻ tôi thăm
thác Bản Giốc. Nước ta rất hiếm thác, nên Bản Giốc nổi tiếng. Tôi còn
nhớ như in cái thiệp du lịch thắng cảnh Đông Dương do người Pháp in, có
Thác Bản Giốc - Cao Bằng, bên thác có cái ki-ốt tròn, nhỏ, lợp tranh để
người đến thăm có thể ngồi tránh nắng, mưa. Tôi đã đích thân cùng bạn
và gia đình nhiều lần đến thăm thác Bản Giốc, khi gia đình tôi sống ở
thị xã Cao Bằng. Các chị và em tôi đã giở cơm nắm ra ăn trong cái ki-ốt
nhỏ khi bọt nước ở chân thác bắn đến gần. Chúng tôi còn tò mò ngắm bà
con người Mán sơn đầu sống gần đó. Phía Trung Quốc còn ở xa, khá xa,
không ai nhắc đến, đinh ninh là thác ở hẳn trên đất ta.”
Ông Bủi
Tín còn nói chi tiết hơn: “Ở Ải Nam Quan còn rõ hơn. Tôi đi qua đây gần
chục lần, bằng ô tô và xe lửa, những năm 1957, 1961, rồi 1976, 1977,
1986, 1989. Cổng đá cao lớn với 3 chữ hán ''Trấn Nam Quan'', sau được
đổi là ''Hữu Nghị Quan'' chữ vàng, cùng cột cây số có chữ ''0 km'' chữ
đen nền trắng là những vật gây ấn tượng mỗi lần đi qua. Thường đến đó
xe dừng lại để nghỉ ngơi, ngắm cảnh và đưa giấy tờ cho công an và hải
quan 2 bên. Hai lần đầu, tôi nhớ rõ, chiếc cột cây số ở rất gần cổng,
không sát cổng đổ xuống, nhưng không xa, ước tính bằng chiều rộng của
một sân bóng đá, không thể đến 100 mét. Năm 1986, tôi quan sát kỹ, và
nhận ra quang cảnh khác hẳn thời chiến, cổng vẫn thế, nhưng từ cổng đổ
xuống, nhà cửa san sát, bãi xe rộng, nhà nghỉ, trạm gác, dãy nhà công
an, hải quan của phía Trung Quốc mọc lên, bề thế, đi mỏi chân mới đến
cột cây số mới toanh''0km'', không thể dưới 300 mét, phải bằng 2 chiều
dài của sân bóng đá. Cho nên chỉ bằng quan sát tại chỗ, so sánh thực
tế, tôi cũng đã có thể khẳng định ông Vũ Dũng không biết thực tế, cố
tình nói liều.”
“Tài liệu còn lưu trong hồ sơ chính quyền Pháp
cũng nói đường biên giới ở cách chân cổng Trấn Nam Quan ''chừng 100
mét'', với bản đồ đi kèm. Vậy mà theo sơ đồ vẽ tại chỗ hiện nay, khoảng
cách ấy là từ 300 đến 350 mét. Chả trách bộ chính trị và bộ ngoại giao
giấu kỹ các tập bản đồ đến thế, cho dù trong Hiệp định về biên giới có
ghi rõ tập bản đồ kèm theo là ''bộ phận cấu thành của Hiệp định''.
Chừng 100 mét, so với 300 hay 350 mét thì có khác gì nhau không, thưa
ông Vũ Dũng? Vậy thì cái cổng nặng nề ấy đã bị di dời sang phía Bắc,
hay cái cột cây số nhỏ bé đã bị gió thổi về phía Nam ? Không thì vì đâu
?”
Ông Bùi Tín còn thách thức: “Cũng lại xin hỏi ông Dũng: năm
1979 Bộ ngoại giao đã ra sách Trắng về sự thật trong quan hệ Việt-Trung
và sự thật về biên giới 2 nước, có nhiều đoạn tố cáo phía Trung quốc:
''đã lợi dụng việc phía Việt nam nhờ in giúp bản đồ cỡ 1/100.000, vẽ
vùng có thác Bản Giốc của Việt nam sang phía Trung quốc; đã lợi dụng
việc nối đường sắt giữa 2 nước để lấn sang biên giới Việt Nam đến hơn
300 mét; đã nhân việc làm ống dẫn dầu qua biên giới mà lấn một dải đất
dài 3100 mét, rộng 500 mét của lãnh thổ Việt nam''. Tôi biết hồi ấy
chính ông đã cùng Trưởng ban biên giới Lê Minh Nghĩa tham gia viết Sách
Trắng ấy của Bộ ngoại giao. Vậy nay ông có dám nói rằng tất cả những tố
cáo ấy là không đúng, là sai, là vu cáo phía Trung Quốc và nay ông xin
sám hối hay không?”
Cuốn Sách Trắng của bộ Ngoại giao
còn lên án ''Nhà cầm quyền Trung Quốc thực hiện một tư tưởng chỉ đạo
đại dân tộc, thực hiện một chính sách ích kỷ dân tộc và thực hiện mục
tiêu chiến lược của chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và chủ nghĩa bá
quyền nước lớn''.
Kết luận, ông Bùi Tín chửi xéo Vũ Dũng: “Xin
ông cho biết: nay ông có thực tâm rút lui lời lên án ấy, để thay vào
đường lối mới của hai bộ chính trị hiện nay là 16 chữ vàng (!): ''láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng đến tương
lai'' ? (Bùi Tín, “Vấn đề mất đất mất biển: Tôi thách ông Vũ Dũng đấy!”. Thông Luận, ngày 18/01/2008)
Sách Trắng nói gì ?
Tập Sách Trắng
của Nhà xuất bản Sự Thật ấn hành tháng 3/1979, sau cuộc chiến tranh
biên giới Việt-Tàu, còn tố cáo Tàu chiếm đất của Việt Nam từ năm 1954.
Một
đọan trong Chương II của sách này viết: “Trong một phần tư thế kỷ vừa
qua, nhà cầm quyền Trung Quốc đã lần lượt chiếm hết khu vực này đến khu
vực khác của Việt Nam, từ khu vực nhỏ hẹp đến khu vực to lớn, từ khu
vực quan trọng về quân sự đến khu vực quan trọng về kinh tế. Họ đã dùng
mọi thủ đọan, kể cả những thủ đọan xấu xa nà các chế độ phản động của
Trung Quốc trước kia không dùng.”
“Lợi dụng đặc điểm núi sông
hai nước ở nhiều nơi liền một dải, nhân dân hai bên biên giới vốn có
quan hệ họ hàng, dân tộc, phía Trung Quốc đã đưa dân họ vào những vùng
lãnh thổ Việt Nam để làm ruộng, làm nương, rồi định cư những người dân
đó ở luôn chỗ có ruộng, nương, cuối cùng nhà cầm quyến Trung Quốc ngang
ngược coi những khu vực đó là lãnh thồ Trung Quốc.”
Riêng đọan
7, đã viết về việc Tàu có ý định chiếm một phần thác Bản Giốc khi Tàu
“lợi dụng việc vẽ bản đồ giúp Việt Nam chuyển dịch đường biên giới”.
Nguyên
văn: “Năm 1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt
Nam tỷ lệ 1/100.000, Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu
mợt số đọan đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của
Việt Nam thành đất Trung Quốc. Thí dụ: họ đã sửa ký hiệu khu vực thác
Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác
Bản Giốc của Việt Nam và Pò Thoong.”
Không ai có thể hiểu khác
điều khẳng định như đinh đóng cột của CSVN vào năm 1979 khi họ viết
trên giấy trắng mực đen rằng Tàu “định chiếm một phần thác Bản Giốc của
Việt Nam và Pò Thoong”.
Còn vùng đất của Việt Nam tại Hữu nghị quan thuộc về ai ? Sách Trắng
của Việt Nam tố cáo Tàu: “Năm 1955, tại khu vực Hữu nghị quan, khi giúp
Việt Nam khôi phục đọan đường sắt từ biên giới Việt – Trung đến Yên
Viên, gần Hà Nội, lợi dụng lòng tin của Việt Nam, phía Trung Quốc đã
đặt điểm nối ray đường sắt Việt – Trung sâu trong lãnh thồ Việt Nam
trên 300 mét so với đường biên giới lịch sử, coi điểm nối ray là điểm
mà đường biên giới giữa hai nước đi qua. Ngày 31 tháng 12 năm 1974,
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã đề nghị chính phủ hai nước giao
cho ngành đường sắt hai bên điều chỉnh lại điểm nối ray cho phù hợp với
đường biên giới lịch sử nhưng họ một mực khước từ bằng cách hẹn đến khi
hai bên bàn toàn bộ vần đề biên giới thì sẽ xem xét. Cho đến nay (chú
thích : 1979), họ vẫn trắng trợn ngụy biện rằng khu vực hơn 300 mét
đường sắt đó là đất Trung Quốc với lập luận rằng “không thể có đường
sắt của nước này đặt trên lãnh thổ nước khác.”
Đó là những điều
nói ra từ cửa miệng nhà nước CSVN. Không ai biết rõ tình trạng 300 mét
đất mất ấy bây giờ thuộc về Ta hay Tàu. Ấy là chưa kể các phần đất quân
Tàu chiếm rồi không trả lại cho Việt Nam sau cuộc chiến tranh biên giới
năm 1979, đã từng được Hà Nội tố cáo Bắc Kinh trước khi hai bên nối lại
bang giao năm 1991.
Chiếu ngang lãnh thổ vùng biên giới Việt - Tàu dài khoảng 1,400 cây số.
Thả tham nhũng
Việc
thứ hai là quyết định đặc xá cho những phạm nhân can tội tham nhũng lớn
nhỏ, trong số này có hai cha con Mai Văn Dâu, cựu Thứ trưởng Bộ Thương
mại, con trai Mai Thanh Hải và phó vụ trưởng Vụ Xuất Khẩu Lê Văn Thắng
và 277 cán bộ, đảng viên can phạm tham nhũng.
Ngoài ra còn có
Lương Quốc Dũng, phó chủ nhiệm Ủy Ban Thể Dục Thể Thao, chức vụ tương
đương hàng thứ trưởng, bị bỏ tù từ năm 2004 với bản án 8 năm vì hiếp
dâm trẻ em.
Mai Văn Dâu bị bắt tháng 9/2004 vì toa rập với một
số viên chức dưới quyền lấy tiền hối lộ mà không cấp quota xuất cảng
hàng dệt may.
Tính đến ngày được đặc xá, Dâu bị bắt đã 5 năm.
Tháng 6/2007, Mai Văn Dâu được Toà án Nhân dân Tối cao giảm án từ 14
xuống 12 năm tù về tội nhận hối lộ. Tại cơ quan điều tra, Mai Văn Dâu
đã thừa nhận nhiều lần bút phê lên hồ sơ xin cấp hạn ngạch dệt may của
các doanh nghiệp và được Nguyễn Cương (nguyên phó Ban quản lý các khu
chế xuất và khu công nghiệp TP HCM) "biếu" 6.000 dollars.
Hành
động khoan hồng cho những kẻ tham nhũng, ăn cắp tiền của nhân dân trong
khi đảng và nhà nước không ngừng găng cổ lên kêu gào và thúc đẩy đảng
viên kiên quyết phòng chống tham nhũng không khác gì đã xỉ nhục, tạt
gáo nước lạnh vào mặt những ai đang ngày đêm tìm cách làm sạch chế độ.
Từ
nay, có còn ai muốn chống tham nhũng nữa không hay cán bộ, đảng viên
thấy kẻ tham nhũng trước mình mà chỉ bị tù “làm cảnh” như thế thì dại
gì không thi đua, bảo nhau đục khóet để lỡ có bị bắt cũng thoả chí, bõ
công ?
Chẳng thế mà trong Hội nghị 9 của Trung ương đảng mới kết
thúc hôm 13/01/2009 vừa qua, đảng phải thừa nhận: “Công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém; hành động
trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn hạn chế; tính khả
thi của một số quy định phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa cao; tổ
chức thực hiện các quy định của Đảng và Nhà nước về công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí chưa đồng đều, chưa sâu, nhiều nơi còn yếu;
tính tiên phong, gương mẫu của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là
những cán bộ có chức vụ, quyền hạn còn yếu kém; công tác kiểm tra của
cơ quan, tổ chức, đơn vị ở nhiều nơi còn thiếu chủ động, chưa thường
xuyên, có hiện tượng né tránh trong xử lý; nhiều vụ án tham nhũng còn
xử lý chậm. Hoạt động của Ban Chỉ đạo và bộ phận giúp việc ở nhiều địa
phương còn lúng túng; sự chỉ đạo, điều hành của một số cấp uỷ, chính
quyền và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa tương xứng với
yêu cầu đặt ra. Tình hình tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, diễn biến
phức tạp; tình trạng nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức gây
bức xúc trong nhân dân.”
Việc đặc xá hàng loạt những kẻ tham
nhũng và hành động dâng lãnh thổ cho Tàu Trước thềm năm mới Kỷ Sửu
không liên hệ với nhau, nhưng lại mang cùng một ý nghĩa phản bội và xúc
phạm nghiêm trọng đến vong linh của những anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh
để bảo vệ Tổ Quốc và những nạn nhân đang còn sống của tham nhũng.
Phạm Trần 19/01/2009
|