Vũ Thạch
Nếu
dùng định nghĩa của ông bộ trưởng Lê Doãn Hợp rằng “Quản Lý là Quản có
Lý”, thì đúng là các vị lãnh đạo cao nhất của ông đang liên tục phóng
ra nhiều kiểu biện minh “Mại Lý”, tức Bán có Lý, xuống hệ thống cán bộ,
đảng viên các cấp. Mục tiêu là để từ đó lan ra dân chúng như những lời
giải thích bán chính thức về những động thái của lãnh đạo Đảng CSVN đối
với Trung Quốc suốt hơn một thập niên qua.
Thật vậy, dù không
chính thức xuất hiện trên báo, trên đài của Nhà Nước, nhưng trong những
buổi gọi là “tâm tình” giữa công an và một số nhà dân chủ, giữa ban
Tuyên giáo Trung ương và các ký giả, giữa các hiệu trưởng và sinh viên,
giữa các đại sứ và ký giả nước ngoài, người ta bắt đầu thấy giảm hẳn
những lời chối không mất đất, mất biển; Nhưng thay vào đó là những luận
điểm biện minh cho hành động nhượng đất, nhượng biển cho Trung Quốc là
“có lý” và ai cũng phải làm thế thôi.
Biện minh thứ nhất của
Đảng có thể tóm tắt như sau: Làm gì có chuyện “bán nước”. Vì nói tới
chữ “bán” thì phải có nghĩa là người bán thu nhập được tiền. Nhưng ai
cũng biết ngày nay chẳng có ông bà lãnh đạo nào nghèo cả, đặc biệt là ở
thượng tầng. Gia đình họ đều giàu có cả và đều có mạng lưới làm ăn thu
lợi hàng ngày. Vậy thì họ bán nước để được bao nhiêu và có đáng gì so
với gia tài của họ hiện giờ không?
Có thể nói cách vịn vào chữ
nghĩa để chạy tội và đánh lạc hướng vấn đề không giúp gì nhiều cho các
lãnh đạo Đảng. Vì trong suốt giòng lịch sử Việt Nam, chẳng có kẻ bán
nước nào nhận được tiền hay muốn nhận tiền cả, nhưng từ ngàn xưa dân
tộc ta vẫn dùng chữ “mại quốc cầu vinh” để gọi loại người từ Kiều Công
Tiễn, đến Trần Di Ái, Trần Ích Tắc, đến Lê Chiêu Thống và đến những kẻ
đang bán nước hiện nay. Tất cả những kẻ này đều giống nhau ở một điểm
là họ chẳng cần nhận một đồng nào cả, nhưng tất cả đều muốn cái ghế cai
trị bằng mọi giá.
Thế nhưng câu hỏi kế tiếp là những người lãnh đạo đảng CSVN đang ngồi ở ghế cai trị rồi thì cớ sao họ lại phải đi bán nuớc?
Câu
trả lời hiện ra khá rõ khi nhìn lại những gì đã xảy ra trong nửa thế kỷ
qua. Thật vậy, sau nhiều thập niên cậy dựa hoàn toàn vào người đồng chí
Phương Bắc, có thể nói ngày nay Bắc Kinh có cả một chùm cà rốt và một
bó gậy để khuyến khích lẫn hăm dọa các lãnh tụ Hà Nội phải khấu tấu
trước các yêu sách của họ. Trước hết là các củ cà rốt. Các lãnh tụ gốc
Việt rất cần và rất muốn được tiếp tục truyền thụ các công thức cai trị
của Bắc Kinh, từ lý thuyết đến thực hành. Vì ngoài con đường mà Bắc
Kinh đã đi trước thử nghiệm, các lãnh tụ tại Hà Nội dường như không dám
mạo hiểm tự tìm một con đường nào khác. Bài học dò dẫm tìm đường của
Gorbachev mở màn cho các xụp đổ tại Liên Sô và Đông Âu vẫn còn để lại
nhiều ám ảnh, khiến Hà Nội không còn dám phiên lưu một bước nào nữa. Và
vì thế mà ngày nay, người ta thấy từng điểm lý luận, từng chính sách,
từng nghị quyết vừa xuất hiện tại Trung Quốc, thì chỉ mất từ 6 tháng
tới 1 năm sau một bản tương tự ra đời tại Việt Nam. Thí dụ như “nền
kinh tế thị trường với đặc tính Trung Quốc” không lâu sau đã trở thành
“nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN” tại Việt Nam, để vẫn nhân
danh Chủ Nghĩa Xã Hội mà duy trì chế độ chuyên chính vô sản nhưng lại
công nhận quyền tư hữu các tư liệu sản xuất để thu hút đầu tư nước
ngoài. Và xa hơn những vấn đề lý luận, Hà Nội cũng được truyền thụ từ
Bắc Kinh đủ loại phương pháp để mở rộng sinh hoạt kinh tế nhưng vẫn bóp
nghẹt được các đòi hỏi mở rộng sinh hoạt chính trị, cũng như những
phương tiện để bưng bít thông tin, mà quan trọng hơn cả là ngăn chặn,
sàng lọc, và truy lùng trên Internet, v.v… Điều hiển nhiên là các món
quà này không miễn phí!
Và nếu chùm cà rốt đó vẫn chưa đủ để Hà
Nội phải ngoan ngoãn bước lùi, thì Bắc Kinh còn có cả một bó gậy để làm
cuộc đời và cái ghế cai trị của các lãnh tụ gốc Việt mười phần gian
nan. Trước hết là những tay chân của Bắc Kinh (mà dân gian gọi nhẹ
nhàng là phe “thân Tàu”) đã được các trường, các cố vấn Trung Quốc đào
tạo và cài cắm trong nhiều thập niên, và nay trải rộng trong cả hệ
thống Đảng và Nhà Nước, từ các nhân sự trong Bộ Chính Trị, đến Tổng Cục
2 Bộ Quốc Phòng, Bộ Công An, v.v… Ngoài khả năng có thể đồng loạt làm
rối loạn một phần lớn guồng máy cai trị của Hà Nội nếu có lệnh, các
nhân sự này còn dư khả năng cung cấp cho Bắc Kinh đầy đủ dữ kiện chi
tiết về đời tư, mạng lưới làm ăn, tham nhũng, và các chứng tích ăn chơi
của từng lãnh tụ nào còn chưa chịu đứng vào hàng chầu Thiên Triều.
Chính các “nạn nhân” của Tổng Cục 2 đã tri hô lên điều này cách đây
không lâu. Khi cần thiết, các dữ kiện riêng tư này là vũ khí hữu hiệu
để ép buộc đủ loại nhượng bộ.
Kế đến là những hăm dọa làm tê
liệt nền kinh tế Việt Nam. Sau 2 thập niên phát triển theo hướng “ăn
sổi”, không có kế hoạch dài hạn, ngày nay xã hội Việt Nam phải lệ thuộc
vào Trung Quốc vô số mặt hàng, đặc biệt là hầu hết các vật dụng để sinh
sống hàng ngày, và ngay cả phải nhập cảng một khối lượng lớn thực phẩm
và cây trái từ Phương Bắc. Với phần trăm thị trường lớn như vậy tại
Việt Nam trong tay, Bắc Kinh có thể tạo đủ loại biến loạn nhân tạo — từ
khan hiếm giả tạo để bất ngờ lên giá hàng loạt các mặt hàng vào tạo lạm
phát, đến chủ ý xả cổng cho ngập lụt hàng hóa để giết hàng loạt các
công ty nội địa và khởi động vòng xoắn giảm phát. Đó là chưa kể khả
năng của Trung Quốc tung vào Việt Nam một khối lượng tiền lớn để tạo
siêu lạm phát lập tức. Điều cần nói rõ đây là những tờ tiền in thật chứ
không phải tiền làm giả vì Hà Nội đã nhờ Bắc Kinh in giùm tiền giấy cho
Việt Nam từ lâu. Đó không phải là điều bí mật và từng được nhiều cán bộ
đem ra khoe để chứng minh tình hữu nghị nồng nàn Việt Trung vào những
năm cơm lành canh ngọt giữa 2 đảng. Và một khi nền kinh tế Việt Nam hỗn
loạn đủ lớn thì cái ghế của những người cai trị chắc chắn sẽ không yên.
Rất nhiều đồng chí của họ, ngay lúc này, đang chờ mọi cơ hội để tiến
lên thay thế.
Ngoài các cây gậy đánh vào thể chất, Bắc Kinh còn
có những vũ khí để đánh vào các cột trụ tinh thần mà đảng CSVN đang
dùng để chống đỡ cho bệ cai trị của họ. Một trong những cột trụ quan
trọng hiện nay là biểu tượng Hồ Chí Minh (HCM). Sau khi cả chủ nghĩa
Cộng Sản lẫn các thần thánh Cộng Sản như Marx, Lenin, Stalin đều lần
lượt bị lịch sử nhân loại sa thải, Hà Nội đã dành rất nhiều công sức,
tiền bạc vào việc đề cao từ Tư Tưởng HCM, Tác Phong HCM, Gương Đạo Đức
HCM, … và đến cả Bồ Tát HCM. Thế mà Bắc Kinh cứ rỉ rả cho tiết lộ những
chứng tích kéo ngược ông HCM từ hàng thần thánh xuống hàng những con
người bình thường - một ông Hồ chỉ có khả năng góp nhặt tư tưởng sẵn có
của người khác mà thôi; một ông Hồ cũng để tâm yêu và cưới vợ như bao
nhiêu người khác, nhưng đạo đức lại không nhiều vì khi đến bến vinh
quang lại không nhìn nhận vợ cũ nữa. Các bằng chứng về bà Tăng Tuyết
Minh trong cả một cuốn sách có tên “Hồ Chí Minh với Trung Quốc” do
chính Viện Phó Viện Khoa Học Xã Hội Quảng Tây đứng tên tác giả thì khó
có thể xem đó là một hành động nghiên cứu tự phát và không có chủ ý của
Bắc kinh. Và nay, một giáo sư đại học khác tại Đài Loan lại được cung
cấp nhiều dữ liệu rất đặc biệt để xuất bản cả một cuốn sách có tên “Hồ
Chí Minh Sanh Bình Khảo” về gốc tích của ông Hồ. Theo kết luận của giáo
sư Hồ Tuấn Hùng dựa trên các chứng tích, thì ông HCM là một cán bộ
người Hẹ (Hakka) được đảng Cộng Sản Trung Quốc đưa ra năm 1933, để thay
thế gấp một cán bộ gốc Việt quan trọng tên Nguyễn Ái Quốc bị bệnh lao
chết năm 1932. Đây là một lời hăm dọa khá động trời nếu Bắc Kinh cố
tình đẩy sâu vào Việt Nam vì hóa ra người mà đảng CSVN buộc cả nước tôn
sùng là “cha già dân tộc” chỉ là một cán bộ “lặn sâu” của Tàu và suốt
đời tuân theo các chỉ thị từ bên ngoài. Hiển nhiên cả 2 cuốn sách trên
đều không được phiên dịch hay lưu hành tại Việt Nam, nhưng các lãnh tụ
tại Hà Nội đều thấm đòn cảnh cáo và áp lực này của Bắc Kinh. Và hơn thế
nữa, họ không biết người đồng chí Phương Bắc còn bao nhiêu thứ vũ khí
độc hại cỡ đó nữa trong “túi gấm”.
Ngoài cột trụ Hồ Chí Minh,
Bắc Kinh cũng thường xuyên hăm dọa đẽo mòn luôn cây cột công trạng
“giải phóng đất nước” của Hà Nội. Thật vậy, đảng CSVN vẫn biện minh cho
việc vĩnh viễn nắm độc quyền cai trị của họ bằng cái gọi là “sứ mạng
lịch sử” dân tộc Việt đã giao phó sau khi Đảng đánh đuổi quân xâm lược,
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, v.v... Bộ mặt “vì đất nước, vì
độc lập dân tộc”, “quyết tâm quét sạch ngoại bang ra khỏi bờ cõi” sẽ
nhanh chóng trở nên loang lổ nếu Trung Quốc mở chiến dịch quảng bá các
chứng tích tham chiến của lính Tàu trên đất Việt Nam trước năm 1975.
Các chứng tích này cho thấy lãnh đạo Hà Nội đã tự nguyện rước vào và
giao hẳn một phần lớn Miền Bắc cho lính Trung Quốc chiếm đóng để họ dồn
quân xuống đánh miền Nam. Điều này rất khó chối cãi vì các khu nghĩa
trang dành riêng cho lính Trung Quốc, phi công Bắc Hàn còn nằm trên đất
Việt cho đến ngày nay. Và cứ thỉnh thoảng - nghĩa là khi cần thiết chứ
không vì nghĩa vụ tảo mộ hàng năm - 2 ngài đại sứ Tàu và Bắc Hàn lại
đòi đi thăm các nghĩa trang này với những đoàn phóng viên chụp hình
hùng hậu theo sau.
Chỉ với một vài thí dụ về các củ cà rốt và
gậy gộc đó đã đủ minh họa cho điều khá hiển nhiên tại điểm này là ngày
nào những người lãnh đạo đảng CSVN còn tham vọng nắm quyền, thì ngày đó
họ còn bất khả chống cự dưới bàn tay Trung Quốc và các quyền lợi của
đất nước Việt Nam, kể cả lãnh thổ và lãnh hải, tiếp tục bị dâng nhượng.
Biện
minh thứ nhì của Đảng có thể tóm lược như sau: Việt Nam lực yếu hơn mà
muốn sống hòa bình thì phải nhượng bộ thôi. Dù là ai đang nắm quyền thì
đều phải chọn giải pháp như thế cả. Chính cha ông chúng ta ngày xưa
cũng phải cầu hòa với Tàu nhiều lần. Đó là cách sống khôn ngoan bên
cạnh một nước lớn.
Điều làm nhiều người bực mình ngay khi nghe
loại lập luận này là sự trích dẫn lịch sử quá thiếu sót và sai trật của
Ban Tuyên Giáo Trung Ương. Trước hết, trong tất cả các lần chống ngoại
xâm phương Bắc, không có một lần nào nước Nam ta có một quân lực hay
một nền kinh tế mạnh hơn nước Tàu. Kế đến, các triều đại có công với
đất nước đều chỉ khôn khéo cầu hòa SAU KHI đã đánh tan tác và chứng tỏ
vô cùng rõ ràng cho Bắc Triều thấy họ không thể chiếm đóng đất nước
Việt Nam; chứ cha ông ta không dâng đất nước để được sống yên ổn! Điều
rất hiển nhiên là nếu cứ yếu là đương nhiên dâng nhượng thì chắc chắn
sau 4000 năm đã không còn đất nước Việt Nam trên bản đồ nữa.
Do
đó lập luận này của lãnh đạo Đảng qua các loa Lê Công Phụng, Vũ Dũng là
hành động xuyên tạc lịch sử, trích dẫn công ơn của cha ông một cách bất
lương để biện minh cho sự khiếp nhược của người thời nay.
Và nếu bảo rằng dâng nhượng lãnh thổ là "cách sống khôn ngoan bên cạnh một nước lớn" thì:
* Quyết định chống lại quân Tàu năm 1979 của lãnh đạo Đảng thời đó là
dại dột chăng? Nếu khôn ngoan như các lãnh đạo hiện giờ thì nên nhượng
bao nhiêu tỉnh biên giới vào năm đó? * Có phải trận hải chiến
Trường Sa năm 1988 là quyết định tự phát “dại dột” của hải quân Quân
Đội Nhân Dân chứ không phải quyết định khôn ngoan của Bộ Chính Trị? * Vào cả 2 thời điểm đó, quân đội Việt Nam có mạnh hơn quân Tàu không? * ....
Câu
trả lời ngắn gọn và chính xác cho các câu hỏi trên là Đảng và Nhà Nước
CSVN chỉ dám chống trả khi có chỗ dựa - đó là dựa vào quan thày Liên Sô
để trở mặt với quan thày Trung Quốc.
Ngày nay Đảng và Nhà Nước
CSVN chỉ còn một chỗ dựa duy nhất để tiếp tục nắm quyền là Bắc Kinh,
nên chống cự đúng là điều "thiếu khôn ngoan". Do đó, gọi việc dâng
nhượng là "cách sống khôn ngoan" thì chỉ đúng cho tương lai của lãnh
đạo Đảng mà thôi.
Còn dân tộc thì mất đi vĩnh viễn từng phần
thân thể quê hương. Nhiều nước trên thế giới, trong những giai đoạn yếu
thế, họ phải chịu nhìn cảnh ngoại bang chiếm giữ những phần đất nhà
nhưng không bao giờ công nhận hay chính thức dâng nhượng hầu con cháu
còn có cơ hội lấy lại. Một thí dụ cụ thể là các hòn đảo của Nhật bị Nga
chiếm đóng suốt từ sau Thế Chiến 2 đến nay. Nhật Bản hiện nay ở thế yếu
về quân sự, không thể lấy lại các hòn đảo này bằng súng ống nhưng vẫn
tiếp tục đòi và không hề dâng nhượng luôn cho Nga. Vì khi một phần lãnh
thổ đã được chính thức ký kết dâng nhượng thì các thế hệ mai sau, dù có
mạnh hơn đối phương, cũng không còn lý cớ để đòi lại nữa. Đây là những
mất mát VĨNH VIỄN cho một dân tộc.
Rộng hơn nữa, trong thế giới
ngày nay, một chính phủ dân chủ (tức do dân thực sự chỉ định) KHÔNG có
thẩm quyền đem đất nước đi nhượng. Nếu chính phủ đó không đủ khả năng
chuẩn bị đất nước chống lại ngoại xâm, họ thường đủ tự trọng và tinh
thần trách nhiệm để từ chức hầu toàn dân có thể chọn một chính phủ khác
có khả năng hơn. Những người lãnh đạo CSVN hiện nay thì ngược lại. Sau
khi âm thầm ký nhượng hải đảo, lãnh thổ, lãnh hải, quyền khai thác biển
cho ngoại bang, họ trơ mặt:
* Giấu luôn các bản đồ ghi lại những vùng bị mất dù đã ký hàng thập niên trước.
* Cho các quan chức của chế độ ra cãi kịch liệt rằng đó là các vùng đất
của Tàu từ xa xưa, bất kể sử sách Việt Nam đã viết những gì. *
Ra sức biểu diễn hình ảnh một Bắc Kinh hiền hòa và thân thiện, trong
lúc bịt miệng thân nhân những ngư dân bị hải quân Trung Quốc bắn giết
trên biển Đông và tiếp tục huy động toàn dân toàn đảng xì xụp bái lạy
16 chữ vàng của Thiên Triều. * Đàn áp, bỏ tù, trừng phạt mọi
tiếng nói yêu nước đứng lên phản đối Trung Quốc, từ những nhà giáo
thiết tha với tiền đồ tổ tiên đến các cựu chiến binh từng xả thân vì
đất nước và các thanh niên sinh viên sục sôi danh dự Việt Nam.
Hiển nhiên, cả 4 chính sách này đều nằm trong "cách sống khôn ngoan bên cạnh nước lớn" của các lãnh tụ hiện nay.
Và
sau cùng, khi 2 biện minh trên không đủ sức thuyết phục, Đảng đưa ra
biện minh thứ ba trong những ngày gần đây: Thà ta chịu mất một ít đất
nhưng định rõ được biên cương thì mới không tiếp tục mất thêm các phần
đất khác. Đáng lẽ toàn dân phải vui mừng về tin đã hoàn tất việc cắm
mốc biên giới Việt Trung.
Có lẽ so với 2 cách biện minh bên
trên, biện minh thứ 3 này là loại yếu nhất vì chính đảng CSVN đã tự
chứng minh điều đó không đúng trên giấy trắng mực đen. Những gì đã xảy
ra trong 50 năm qua cho thấy không phải cắm được cột mốc trên đất hay
vẽ được tọa độ trên biển là xong. Ai cũng có thể nhìn thấy số thương
vong của ngư dân Việt dưới lằn đạn của hải quân Trung Quốc trên biển
Đông không giảm mà tiếp tục gia tăng sau các ký kết phân Vịnh Bắc Bộ
năm 2000. Ai cũng có thể thấy sau khi Hà Nội nhượng bộ lãnh hải và
quyền đánh cá trong vịnh Bắc Bộ, thì Bắc Kinh rấn tới trong việc xây
dựng các công trình quân sự trên Hoàng Sa, Trường Sa, mở dịch vụ du
lịch và di dân đến các đảo này, và trắng trợn hơn cả là công khai thiết
lập huyện Tam Sa để cai quản Hoàng Sa, Trường Sa vào năm 2007.
Cùng
lúc, trên đất liền, suốt từ khi ký hiệp định năm 1999 với đầy đủ tọa độ
và các mốc điểm địa hình, thì chính báo và đài của Nhà Nước liên tục
tường thuật tình trạng căng thẳng tại các vùng biên giới từ năm này
sang năm khác và kéo dài tới hiện tại. Cả lính và dân phải thường xuyên
canh chừng phía Trung Quốc lấn sang đất Việt, đặc biệt là trong vùng
Tục Lãm mà họ đang thèm thuồng để xây hải cảng. Chính tài liệu Vấn Đề
Biên Giới Việt Trung do Nhà Nước xuất bản năm 1980 đã liệt kê 9 loại
thủ thuật xâm lấn mà lính Trung Quốc thường xuyên được lệnh thi hành,
đặc biệt là trò đào các cột mốc lên rồi đem trồng sâu trong nội địa
Việt Nam vào ban đêm, sau đó nhanh chóng kéo dân vào các vùng mới lấn
được. Cho đến nay, chẳng có chỉ dấu gì cho thấy các thủ thuật này đã
được lệnh chấm dứt.
Do đó, cách nói "chịu mất một số vùng để
không mất thêm nữa" chẳng khác gì kiểu lý luận hãy ném cho con cọp đói
vài tảng thịt để từ nay nó thôi không rình ăn thịt người nữa. Đây là
kiểu ngụy biện để tự dối mình mà thôi.
Chắc chắn các lãnh tụ
hiện nay biết yếu tố quyết định trong việc có mất thêm đất và biển hay
không nằm ở chỗ khác. Đó là ngày nào Bắc Kinh còn nắm đằng chuôi, nghĩa
là họ biết Hà Nội không dựa vào dân tộc để đối phó với ngoại bang nhưng
dựa vào các thế lực bên ngoài để cai trị ngược lại dân tộc, thì Bắc
Kinh sẽ không ngừng lấn tới và ép buộc những nhượng bộ mới về đất,
biển, đảo, khoáng sản, hải sản, và các quyền lợi khác của dân tộc Việt
Nam. Hơn ai hết, Bắc Kinh biết rõ Hà Nội không có đường thoát. Vì cũng
như họ, các nhà lãnh đạo chuyên chính vô sản đều chỉ biết và chỉ muốn
dùng dân như phương tiện, và canh chừng dân như một loại kẻ thù tiềm
ẩn, có thể bùng lên bất cứ lúc nào. Những ý niệm “trưng cầu dân ý”,
“làm theo ý nguyện của dân tộc”, “cậy dựa vào trí tuệ và tâm huyết của
toàn dân”, v.v… đều là những chuyện không tưởng, vì như thế là trao lại
một phần thẩm quyền quyết định tương lai đất nước vào tay nhân dân và
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến ngôi vị cai trị độc quyền của lãnh đạo Đảng.
Chính
vì thế mà cả thế hệ lãnh đạo đảng CSVN hiện nay lẫn tương lai sẽ tiếp
tục chính sách "khôn ngoan sống bên cạnh nước lớn" vô cùng tai hại đó
và tiếp tục bào chế ra những ngụy biện MẠI LÝ mới.
Liệu dân tộc
chúng ta có sức ngăn cản những bàn tay bán nước này lại không? và đến
lúc đó thân thể quê hương Việt sẽ còn lại bao nhiêu?
Vũ Thạch Nguồn: Việt Tân
|