Ngày
30/4/1975, lằn mức đánh dấu chiến thắng của cộng sản Việt Nam (CSVN)
trên toàn cõi Việt Nam, đảng CSVN đã từ từ lộ bộ mặt thật: Một bộ mặt
của bạo quyền, tà mị, cướp của giữa ban ngày và giết người trong bóng
tối dưới mọi hình thức tốt đẹp nhất của ngôn từ. CSVN rất có tài biến
những danh từ văn vẻ, hàm ý tốt trở thành... khủng bố hoặc đáng phỉ nhổ
nhất, chẳng hạn như: học tập cải tạo, kinh tế mới, chính sách khoan
hồng, giác ngộ cách mạng, đỉnh cao trí tuệ, giải phóng, mặt trận tổ
quốc, etc...
Từ đó đến nay, nạn nhân của nhà nước cộng sản,
người dân Việt Nam, có nhẫn nhục, khuất phục trong suốt bao nhiêu năm
không? Tuyệt đối không!
Hành động phản kháng phổ biến nhất là
người Việt đã liều mạng chạy trốn khỏi lũ cai ngục tham tàn. Họ đã chạy
trốn, bỏ lại quê hương, ngôi nhà quen thuộc, người thân ruột thịt, để
đương đầu với bão táp biển Đông, hải tặc, một sống hai chết. Họ chấp
nhận bắt đầu cuộc sống mới với con số 0, từ ngôn ngữ, kiến thức sống
đến của cải vật chất. Cuộc bỏ phiếu bằng chân này diễn ra khắp mọi miền
đất nước, cả Nam lẫn Bắc, đã kéo dài và lên cao đến nỗi người ta có câu
nói “Nếu cái cột đèn có chân thì nó cũng bỏ đi.”
Cuộc bỏ phiếu
này, cuối cùng, chỉ chấm dứt khi Liên Hiệp Quốc phải làm một quyết
định... vô nhân. Đó là gửi trả những thuyền nhân Việt Nam từ các trại
tị nạn về lại Việt Nam vào những năm đầu thập niên 1990, và đã phải
trả, tính trên đầu người trả về, một số tiền để chính phủ Việt Nam nhận
lại các công dân của mình. Sau này, người Việt di dân ra nước ngoài
chuyển qua các phương thức hợp pháp, nhưng vẫn cùng một mục đích, thoát
ra khỏi ách cai trị của đảng CS, như ODP, HO, du học không trở về, xuất
khẩu lao động, etc...
Tuy nhiên, còn có những người Việt đã và
đang chọn lựa sự phản kháng tích cực hơn là chạy trốn. Đó là tìm cách
chống lại bạo quyền, mưu đồ giành lại quyền làm chủ nước nhà. Họ là
những người con yêu của dân tộc Việt, những anh hùng.
Võ Đại Tôn
– Sinh năm 1936 tại Trung phần, nguyên Đại Tá của quân lực Việt Nam
Cộng Hoà (VNCH). Ngay sau khi mất miền Nam, ông đã bị đưa vào trại tập
trung, nhưng đã trốn thoát một năm sau đó, vượt biển tới Úc. Năm 1981,
bất chấp tình trạng sức khỏe và nguy hiểm, Võ Đại Tôn đã về lại VN với
mưu cầu tổ chức kháng chiến phục quốc, và đã bị bắt năm 1982. CSVN đã
tuyên án ông 10 năm tù, hoàn toàn biệt giam và thường bị tra tấn dã
man. Ngày 13/07/1982, CSVN đã mở một cuộc họp báo quốc tế, trong âm mưu
buộc Võ Đại Tôn đọc bản nhận tội do chúng dàn dựng là đã hành động theo
lệnh của CIA Mỹ. Không ngờ bất chấp đe dọa, ông đã phản cung và tuyên
bố chuyến về của ông phát xuất từ lý tưởng dành tự do cho Việt Nam.
Tháng 12/1991, nhờ sự quan tâm của các cộng đồng quốc tế, CSVN phóng
thích ông trở về Úc.
Trần Văn Bá – Sinh năm 1945 tại Sa
đéc, sinh viên du học tại Pháp thời VNCH năm 1966. Ông nguyên là Chủ
tịch Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris, phụ tá giảng viên (1)
Đại học Nanterre, Pháp. Thời gian sau 1975, khi các chuyến vượt biển
của thuyền nhân Việt ngày một lên cao, Trần Văn Bá tham gia rất tích
cực vào các công tác cứu trợ, nhưng anh vẫn luôn quả quyết phải giải
quyết vấn đề tận gốc, tức là tại Việt Nam. Ngày 06/06/1980, ông cùng
các chiến hữu khởi sự cuộc hành trình về quê hương trong mục đích gầy
dựng tổ chức kháng chiến phục quốc. Tháng 9, 1984, ông đã bị bắt tại Cà
Mau trong một chuyến tàu công tác cùng những người tổ chức. Tháng 12,
1984, CSVN đã tuyên án tử hình ông cùng 4 đồng chí Mai Văn Hạnh, Huỳnh
Vĩnh Sanh, Hồ Thái Bạch, Lê Quốc Quân. Ngoài ra còn 21 người khác với
các bản án chung thân, hoặc nhẹ hơn. Dư luận thế giới sôi sục, các cộng
đồng người Việt hải ngoại và các chính giới ngoại quốc liên tục biểu
tình, bình luận phản kháng đòi CSVN hủy án tử hình. Dưới sức ép của
công luận quốc tế, CSVN đã cải án tử hình của Mai Văn Hạnh và Huỳnh
Vĩnh Sanh thành khổ sai chung thân, nhưng vẫn giữ án tử hình và hành
quyết Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch vào ngày 08/01/1985. Trần
Văn Bá đã được vinh danh Huy Chương Tự Do (Truman-Reagan Medal of
Freedom) 2007 và Paris đã cho phép dựng một đài tưởng niệm Trần Văn Bá
ngay tại thủ đô nước Pháp, khánh thành vào 27/09/2008 sắp tới (2).
Hoàng Cơ Minh
– Sinh năm 1935 tại Hà Nội, cựu Phó Đề Đốc Hải Quân của quân lực VNCH.
Ông đã di tản đến Mỹ sau khi mất miền Nam (30/04/1975). Không cam lòng
lo cho đời sống riêng, bỏ lại đồng bào khốn khổ dưới chế độ CS, ông
Hoàng Cơ Minh đã thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt
Nam (tiền thân của đảng Việt Tân hiện nay), lập căn cứ kháng chiến tại
Thái, với sự ủng hộ nhiệt tình của đồng bào hải ngoại. Tháng 8, 1987,
ông đã chết trong cuộc chiến đấu tại Lào trên đường đưa các kháng chiến
quân vào Việt Nam.
Nguyễn Đan Quế – Sinh năm 1942 tại Hà
Nội, di cư vào Nam năm 1954, nguyên phụ tá giáo sư Đại Học Y Khoa Sài
Gòn. Sau tháng 4, 1975, bác sĩ Quế làm việc tại bệnh viện Chợ Rẫy. Dù
có cơ hội rời khỏi nước nhưng ông đã chọn ở lại để giúp cho đồng bào
nghèo khổ. Năm 1976, ông đã bị sa thải khỏi ban quản trị của bệnh viện
vì đã thẳng thắn chỉ trích các chính sách kỳ thị đối với bệnh nhân của
các cán bộ y tế của viện.
Sau đó ông thành lập Mặt Trận Dân Tộc
Tiến Bộ quy tụ rất đông trí thức và phổ biến hai tờ báo bí mật “Vùng
Dậy” và “Toàn Dân Vùng Dậy”, tố cáo CSVN vi phạm nhân quyền và đòi hỏi
chế độ giảm kinh phí quốc phòng để phát triển an sinh xã hội cho người
dân. Đầu năm 1978, ông và 47 thành viên bị bắt, không xét xử, 5 trong
số đã chết vì hành hạ trong lao tù. Mười năm sau, ông được phóng thích,
trở thành hội viên của Hội Ân Xá Quốc Tế.
Năm 1990, ông thành
lập Cao Trào Nhân Bản, tiếp tục đòi hỏi CSVN phải tôn trọng nhân quyền
và chấp nhận đa đảng. Tháng 11, 1990, ông bị bắt lại, chịu án 20 năm
khổ sai. Tháng 9, 1998, dưới sức ép của các tổ chức quốc Tế, các dân
biểu Hoa Kỳ và người Việt tự do ở khắp nơi, CSVN đã phải trả tự do cho
bác sĩ Nguyễn Đan Quế. Ông cương quyết từ chối ra nước ngoài và vẫn
tiếp tục từ trong nước đấu tranh đòi hỏi tự do nhân quyền cho Việt Nam.
Nguyễn Đình Huy
– Sinh năm 1932 tại Ninh Bình, sáng lập viên đảng Tân Đại Việt năm
1964. Sau tháng 4, 1975, ông bị tù cải tạo cho đến tháng 1, 1992.
Tháng
7, 1992, ông cùng một số đồng chí thành lập phong trào Thống Nhất Dân
Tộc và Xây Dựng Dân Chủ (PTTNDT & XDDC) tại VN, và đã các thành
viên đại diện ở Hoa Kỳ dưới sự bảo trợ của Uỷ Ban Quốc Tế Yểm Trợ VN Tự
Do (ICFV) ra mắt chính thức tại Hoa Kỳ vào ngày 13/11/1992 tại một
phòng họp Hạ Viện của Mỹ.
Ngày 17/11/93, ông bị bắt khi đang
chuẩn bị cho buổi hội thảo Quốc Tế Phát Triển VN, dự định vào 27/11/93
tại Saigon, dự trù có khoảng 30 chánh khách quốc tế từ Âu, Úc, Mỹ và Á
châu đến tham dự.
Tháng 8, 1995, CSVN xử kín ông và 8 vị khác
thuộc nhóm PTTNDT & XDDC. Ông lãnh án 15 năm. Trong thời gian bị
giam cầm ông, chủ tịch, và nhà báo Phạm Thái Nguyễn Ngọc Tân, phó chủ
tịch PT, đã được giải thưởng “Tự do phát biểu” của Human Right Watch
1997 & 1998. Bất chấp họng súng và nhà tù, giáo sư Nguyễn Đình Huy
đã can đảm đứng lên cắm ngọn cờ dân chủ ngay tại quốc nội. Tôn chỉ của
PTTNDT & XDDC là người dân Việt có đầy đủ cơ hội phát triển tài
năng và cùng nhau xây dựng đất nước trong hòa bình và tiến bộ.
Hoàng Minh Chính
– Sinh năm 1922, nguyên là Giám Ðốc Viện Nghiên Cứu Học Thuyết
Mác-Lênin. Là một đảng viên cộng sản bị thanh trừng hồi năm 1967 trong
vụ án gọi là “Xét Lại – Chống Ðảng” do Lê Ðức Thọ đề xướng.
Qua
vụ này ông đã bị cầm tù oan ức 2 lần, tổng cộng 11 năm không xét xử và
bị hành hung một cách dã man. Ông được thả về năm 1987, sau đó vẫn tiếp
tục gởi đơn đòi minh oan, đồng thời vận động đòi nhà cầm quyền CSVN xét
xử lại vụ án nói trên cũng như phải thiết lập một nền dân chủ tự do
thực sự tại Việt Nam...
Sợ những sự thật mà ông cáo giác lan
rộng, nhà cầm quyền CSVN đã ra lệnh bắt giam ông lần nữa vào ngày
14/06/1995 và gán cho tội “tuyên truyền chống chế độ”. Sau khi được thả
ra, già yếu và bệnh tật, nhưng ông vẫn lập lại đảng Dân Chủ 21 và tiếp
tục ủng hộ cho các phong trào dân chủ. Ông vừa qua đời tại Việt Nam vào
Tết âm lịch năm 2008.
Nguyễn Hộ – Sinh năm 1916 tại Sài
Gòn, gia nhập đảng CS năm 1937, tập kết ra Bắc năm 1954. Sau năm 1975,
ông trở thành một trong những nhân vật quyền lực nhất trong hàng ngũ
cán bộ ở miền Nam. Nghỉ hưu từ năm 1987 (ở tuổi 71), ông có nhiều thời
gian sống gần gũi nhân dân, nhận thức được sự khốn khổ của dân chúng
dưới chế độ Cộng sản.
Sự va chạm đầu tiên của ông với luật pháp
xảy ra vào năm 1990, sau khi ông cùng với một vài lãnh tụ nổi danh của
miền Nam thành lập Câu Lạc Bộ Cựu Kháng Chiến, rồi xuất bản tờ báo mang
tên Truyền Thống Kháng Chiến. Câu Lạc Bộ nầy đã thu hút hội viên trên
toàn quốc. Chẳng bao lâu sau, nó trở thành là nơi xuất phát những lời
phê phán các chính sách của nhà cầm quyền, nhất là lề lối đối xử tồi tệ
đối với cựu chiến binh và trí thức. Báo chỉ xuất bản được hai số (vào
cuối năm 1989) và hai số báo đó đã khiến cho chính phủ ra lệnh tịch thu
báo số 3 và đóng cửa Câu Lạc Bộ.
Không chịu đựng được áp lực của
nhà cầm quyền, ông Nguyễn Hộ đã rời khỏi Sài Gòn ngày 21 tháng 3 năm
1990 và trở thành nhân vật công khai đối lập. Một tháng sau, vài cộng
sự viên của Câu Lạc Bộ Cựu Kháng Chiến bị bắt. Ðó là các ông Tạ Bá
Tòng, Hồ Văn Hiếu, Ðỗ Trung Hiếu và Lê Ðình Mạnh. Hậu quả của phong
trào nầy là từ tháng 12 năm 1990 đến tháng 5 năm 1991 có 35.000 người
bị bắt, theo sự tiết lộ của báo Quân Ðội Nhân Dân hồi tháng 5 năm 1991.
Ông bị bắt ngày 07/09/1990, bị quản thúc tại gia suốt 3 năm sau. Ông
can tội gì? Phải chăng chỉ vì ông đã tuyên bố:
“Hơn
60 năm đi theo con đường cách mạng Cộng Sản, nhân dân Việt Nam đã chịu
đựng vô vàn hy sinh và rồi cuối cùng chẳng được gì cả. Ðất nước vẫn còn
nghèo nàn, lạc hậu như thuở xưa, nhân dân không được no ấm và hạnh
phúc, không được tự do và dân chủ. Ðó là một sỉ nhục.”
Bùi Minh Quốc
– Nhà thơ, đã có mặt trong quân đội Bắc Việt tại chiến trường miền Nam.
Sau 1975, ông giữ chức vụ Chủ tịch Hội Văn Nghệ tỉnh Lâm Đồng và đã từ
từ nhận rõ ra được sự ngu dốt, độc đoán, sai lầm và phản bội của CSVN.
Cuối
năm 2001, quá uất ức khi biết tin Hiệp Ðịnh Biên Giới Việt Trung ký
ngày 29/12/1999 đã làm mất đi một phần đất của tổ tiên, ông đã thực
hiện một chuyến phóng sự vùng biên giới Trung Việt để tìm hiểu thực tế.
Ngày 14/1/2002, công an đã bắt ông tại Hà Nội và tịch thu trên 300 tài
liệu bị xem là “phản động”, trong đó có những hình ảnh và sổ tay ghi
nhận dữ kiện trong vùng biên giới. Sau 3 ngày bị tra tấn tại Hà Nội,
ông đã bị trục xuất về Ðà Lạt, nơi ông đang bị quản thúc và bị theo dõi
suốt ngày suốt đêm.
Hà Sĩ Phu – Sinh năm 1940 tại Bắc
Ninh, nguyên giảng viên Đại Học Dược Khoa Hà Nội, trình luận án nghiên
cứu về Tế Bào Sinh Học tài Tiệp Khắc. Về nước, giữ chức vụ Phó Giám đốc
phân viện Khoa Học Đà Lạt, về hưu năm 1993. Ông đã viết những bài viết
nổi tiếng như: Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ (1988), Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân (1993), Chia Tay Ý Thức Hệ (1995).
Cuối năm 1995 bị tông xe, giật túi, bị bắt, giam 9 tháng ở trại giam B14 để hỏi cung về bài Chia Tay Ý Thức Hệ, về quan hệ với các ông Nguyễn Hộ, Đỗ Trung Hiếu, Hoàng Minh Chính, Trần Độ…, sau đó ra toà và chịu án tù 1 năm.
Lê Chí Quang
– Sinh năm 1970 tại Hà Nội, tham gia phong trào đấu tranh cho dân chủ
từ năm 2000, phát động chiến dịch phản đối nhà nước VN dâng biển, dâng
đất cho Trung Cộng.
- Năm 2001, anh góp ý với Đại hội Đảng CSVN
lần thứ IX, phê phán văn kiện Đại hội và đề ra cương lĩnh mới cho Đảng
CS, cũng như kêu gọi dân chủ đa nguyên, ngôn luận, tự do báo chí.
Hai bài viết này đã bị công an thu giữ hiện không còn bản gốc. Các bài viết sau đó được phổ biến rộng rãi như Hiệp định Thương Mại và quan hệ Việt Mỹ (6/2001), Hãy cảnh giác Bắc Triều (10/2001).
Ngày
08/11/2002, trong một phiên xử kín, Tòa Án Nhân Dân Hà Nội đã kết án
ông Lê Chí quang 4 năm tù ở và 3 năm quản thúc tại gia. Nhiều tổ chức
nhân quyền trên thế giới như Amnesty International, Reporters sans
Frontières, Committee to Protect Journalists, ... cực lực lên án bản án
này.
Ngày 12/o6/2004, dưới áp lực của các tổ chức nhân quyền và
chính giới các nước tự do, nhà nước CSVN đã trả tự do cho anh Lê Chí
Quang
Nguyễn Vũ Bình
Sinh năm 1968 tại Nam
Định, nguyên là phóng viên Tạp Chí Cộng Sản. Ngày 02/09/2000, anh nộp
đơn xin thành lập đảng Tự Do- Dân Chủ, gia nhập Hội Chống Tham Nhũng.
Ông bị bắt giam vào tháng 7/2002 sau khi gửi một bản điều trần về tình
hình Việt Nam đến Uỷ Ban Nhân Quyền Quốc Hội Hoa Kỳ qua internet. Sau
đó anh bị tuyên án 7 năm tù và 3 năm tù và 3 năm quản chế. Ông đã được
thả ra trước thời hạn vào năm 2007 vừa qua nhờ áp lực của các cơ quan
nhân quyền quốc tế.
Đỗ Nam Hải
Sinh năm
1959 tại Hà Nội, theo gia đình vào Nam năm 1975. Sau thời gian sống và
tai nghe mắt thấy sự thật về đất nước tài miền Nam, anh đã dùng thời
gian ở Australia khoảng năm 2001 để viết và phát tán 5 bài tiểu luận
nổi tiếng với bút hiệu Phương Nam: Việt Nam Đất Nước Tôi, Việt Nam
Và Sự Đổi Mới, Suy Nghĩ Về Nhận Thức lại, Viết Về Chủ Tịch Hồ Chí
Minh,Viết Tiếp Về Nhận Thức Lại.
Sau đó về lại Việt Nam và
làm việc tại Saigon, ông là một trong nhiều người thành lập khối 8406
vào năm 2006, thu thập hàng ngàn chữ ký của các trí thức và công dân
yêu nước đòi hỏi trưng cầu dân ý, dân chủ hóa và đa nguyên, đa đảng cho
Việt Nam. Ông hiện luôn bị bạo quyền CS khó dễ, theo dõi, khủng bố và
gần như quản chế tại Sài gòn.
Ngoài các nhân vật kể trên, còn
rất nhiều các nhà đối kháng yêu nước khác nổi bật như: ông Phạm Hồng
Sơn, cựu tướng Trần Độ, ông Nguyễn Thanh Giang, bà Dương Thu Hương, bà
Trần Khải Thanh Thủy, ông Hoàng Tiến, ông Nguyễn Khắc Toàn, ông Nguyễn
Chí Thiện, hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, mục sư Hồng
Quang, linh mục Nguyễn Văn Lý, luật sư Lê thị Công Nhân, luật sư Nguyễn
Văn Đài, bác sĩ Lê Nguyên Sang, ông Huỳnh Nguyên Đạo, thương gia Nguyễn
Bắc Truyễn, ông Nguyễn Phong, cô Nguyễn thị Lệ Hằng, ect... mà giới hạn
bài viết không thể sơ lược hết.
Chúng ta có thể nhận thấy rằng
những tiếng nói phản kháng trên đã đến từ mọi miền của đất nước, cả đến
những người Việt dù đã thoát ra khỏi ngục tù CS từ khắp các chân trời
tự do, Pháp, Mỹ, Úc..., những con người từ mọi lứa tuổi và có nhiều
khác biệt về tôn giáo, quá khứ, bối cảnh, thế giới quan, trình độ, kinh
nghiệm sống. Nhưng tất cả họ đã gặp nhau ở một điểm. Đó là gạt quyền
lợi của cá nhân để dấn thân cho nguyện vọng và quyền lợi của dân tộc.
Chống
lại nhà cầm quyền độc tài thối nát hiện tại là trách vụ của tất cả
những người yêu nước hướng tới sự tồn vong của dân tộc. Một nước với
dân số 86 triệu, dĩ nhiên mỗi người đều có nguồn gốc và nguyên nhân, lý
tưởng khác biệt khi tự nhận mình là người chống bạo quyền CS. Người
hiểu biết không ai trông đợi tất cả mọi người chống Cộng vì cùng một
nguyên nhân, từ cùng một nguồn gốc, có cùng bối cảnh, hay chung một lý
tưởng. Hãy nhìn vào “the big picture” – đảng độc tài CS phải sụp đổ vì
tất cả những tội lỗi từ quá khứ đến hiện tại họ đã gây ra cho dân tộc.
Và nếu như có những người tin rằng phải gạt bỏ quá khứ thì hãy chỉ nhìn
vào hiện tại. Đất nước đang bị lũng đoạn bởi một tập đoàn cực kỳ phản
động đặt quyền lợi đảng phái trên quyền lợi quốc gia, đi ngược lại ý
nguyện của dân tộc và có nhiều cơ sở cho thấy sẽ để mất nước vào tay
ngoại bang. Thế thì hãy cùng trợ giúp nhau, kính trọng quá khứ của nhau
để hướng tới một ý nguyện chung là: Độc tài CS phải đổ. Và nếu có những
người còn tin vào có thể nói chuyện với độc tài CS thì hãy nghe câu
tuyên bố của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết: “Bỏ điều 4 hiến pháp là
tự sát!”
Con
thú dữ trước khi chết thường lồng lộn và hung hăng. Cả một chế độ công
an đi chung với xã hội đen và bọn đầu gấu luôn rình rập khủng bố, vùi
giập không nương tay những người tranh đấu cho sự công bằng, cho quyền
lợi chung của người dân. Linh mục Lý bị bịt miệng giữa tòa. Lê thị Công
Nhân, Nguyễn Văn Đài tù tội vì lưu trữ và phát tán các tài liệu về dân
chủ. Bác sĩ Lê Nguyên Sang, nhà báo Huỳnh Nguyên Đạo, thương gia Nguyễn
Bắc Truyển, Nguyễn Phong, Nguyễn Bình Thành lãnh án vì tham gia đảng
phái đấu tranh bất bạo động. Ông Trương Quốc Huy đang ngồi tù vì rải
truyền đơn, tham gia vào các mạng hội thảo về dân chủ. Những người phản
kháng bất bạo động đang bị trấn áp bằng bạo lực, ông Vũ Hùng, ông
Nguyễn Xuân Nghĩa,cô Phan Thanh Nghiên, ... Hàng trăm ngàn nạn nhân hữu
danh và vô danh mà người viết không thể đề cập hết.
Đoạn đường
núi Sọ, 80 triệu người dân Việt vẫn đang phải đi trong nhọc nhằn, cay
đắng. Nhưng khác với Chúa Jesus, dân Việt ta sẽ đến được núi Sọ, không
phải để bị đóng đanh trên thập giá, mà để đưa chính lũ quân dữ lên thập
giá của lịch sử.
Dân tộc Việt từ đó sẽ phục sinh.
|