JB Nguyễn Hữu Vinh
Ngay sau khi tổ chức “Uỷ ban liên lạc Công giáo toàn quốc” ra đời,
trong một lá thư đề ngày 12/3/1955, Khâm mạng Toà thánh John Dooley và
các Giám mục giáo tỉnh miền bắc đã lên án Uỷ ban này, coi đó là “một hiểm hoạ cho sự thống nhất của Giáo hội Việt Nam”.
Điều
lo ngại hơn 50 năm trước của hàng giáo phẩm Việt Nam không phải là
không có cơ sở. Những hành động và các chính sách của các nước “anh em
trong phe Xã hội Chủ nghĩa” đã là những bài học mà các vị nhìn thấy rõ
bản chất. Một giáo hội quốc doanh tự trị ở ngay bên cạnh đất nước chúng
ta –Trung Quốc – hoàn toàn ly khai với Giáo hội Hoàn vũ, với Toà Thánh
Vatican là mô hình lý tưởng cho các nước cộng sản áp dụng chính sách
“đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Trải qua hơn 50 năm tồn
tại và được sự hướng dẫn, dìu dắt lãnh đạo tuyệt đối của đảng Cộng sản
Việt Nam, sống bằng tiền ngân sách nhà nước – những đồng tiền từ túi
người dân nghèo - tổ chức “Uỷ ban đoàn kết công giáo” ngày nay đã thể
hiện rõ bản chất của nó và chứng minh điều lo ngại nhìn xa trông rộng
đó hoàn toàn đúng đắn.
Những ngày qua, dịp Giáng sinh 2008 ở Hà
Nội, điều này đã thể hiện rất rõ qua việc Uỷ ban này tổ chức Noel thay
cho Toà Tổng Giám mục để được Nhà nước chúc mừng rầm rộ. Linh mục
Nguyễn Công Danh, Chủ tịch uỷ ban này – người mà theo điều lệ là “được
Đảng và nhà nước tín nhiệm” - đã cất công bay từ Sài Gòn ra Hà Nội để
tổ chức Giáng sinh, nhận những lời chúc tụng của các cấp nhà nước. Linh
mục Dương Phú Oanh đã được UBND TP Hà Nội chúc mừng với những lời hoa
mỹ ồn ào và bóng bẩy trong khi cả Hà Nội không có trang hoàng và những
chương trình mừng lễ Noel sau khi bề trên của mình là Đức Tổng Giám mục
vừa bị trận đòn hội chợ của đám quần chúng “tự phát.. tiền” và Đức Mẹ
sầu bi đang chịu cảnh cầm tù chưa được hưởng “chính sách khoan hồng của
đảng và nhà nước” để về hội tụ cùng giáo dân.
Mục đích và phương tiện
Mục đích của tổ chức này đã rõ, dù nó được chính linh mục Nguyễn Công Danh nói rằng: “Nó là một tổ chức của giới công giáo trong việc đóng góp xây dựng đất nước, nó là cầu nối, là trung gian…” nhưng
ẩn giấu đằng sau đó là một âm mưu lâu dài chống phá Giáo hội Việt Nam,
tạo nên một giáo hội bên ngoài Giáo hội, để “sống giữa lòng dân tộc”.
Thực tế là nó trung thì ít mà gian thì nhiều.
Ở đây, người ta
đã đánh tráo khái niệm như muôn vàn lần đã đánh tráo khái niệm về ngôn
ngữ. Chẳng hạn “quản lý” là sở hữu trong vụ đất đai Toà Khâm sứ và Thái
Hà. Nói lên sự thật là nói xấu, là chống phá. Chữ “dân tộc” ở đây có
nghĩa là “đảng” (chắc bởi đảng đã ngang hàng với Tổ quốc và bao trùm
toàn bộ đất nước, cờ đảng được treo ngang bằng, thậm chí còn cao hơn cờ
Tổ quốc trong hầu hết các hội trường, hội nghị cũng như các buổi quốc
lễ khác?). Bao nhiêu người chỉ cần tỏ ý không đồng ý với những đường
lối chính sách của đảng, thì lập tức được khoác cho cái áo “chống lại
dân tộc, chống lại đất nước”. Chính vì vậy, việc sống giữa lòng dân tộc
phải được hiểu là “sống giữa lòng đảng”.
Với một đảng cộng sản
với bản chất vô thần thì đương nhiên những tôn giáo hữu thần đều là
điều khó chấp nhận. Bằng những chính sách chiến lược và sách lược về
tôn giáo của đảng và nhà nước các nước cộng sản, các nhà nước đã tận
dụng “triệt để và sáng tạo” nhiều khi bất chấp pháp luật để “quản lý”
các tôn giáo. Một trong những nội dung của học thuyết Mác – Lenin, thì
chính sách tôn giáo như sau: “Tận dụng triệt để những phần tử tiến bộ
trong các chức sắc tôn giáo”.
Tận dụng triệt để
Về giáo dục, ngay từ những ngày còn thơ bé, trẻ em đến trường được dạy dỗ công phu để có được nhận thức “Thương cha thương mẹ thương chồng/ Thương mình thương một, thương ông thương mười” (Đời đời nhớ ông Xtalin - Tố Hữu). Rồi “Ông Lenin ở nước Nga/ Mà sao lại thấy rất là Việt Nam”… Đến nỗi dân gian có những câu thơ hài hước rằng: “Ông Lê nin ở nước Nga/ Cớ sao lại đến vườn hoa nước này?/ Ông vạch áo, ông chỉ tay/ Ông làm như thể nước này của ông?” Cứ thế cho đến khi vào những lớp cao hơn thì “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” là giáo trình Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh…
Tất cả những điều đó đã tạo nên một thành phần ý thức xã hội đến độ mở miệng ra là “ơn đảng, ơn chính phủ”. Một câu chuyện ngắn về một học sinh lớp 5 đã trả lời câu hỏi: “Nhờ đâu vượn người biến thành người?” rằng: “Thưa cô, nhờ ơn đảng và ơn chính phủ”.
Quả
là hệ thống giáo dục và truyền thông của nhà nước và các chế độ cộng
sản đã thành công trong việc biến ý thức mang ơn, xin cho của người dân
thành một phản xạ có điều kiện những điều mà lẽ ra phải là ngược lại.
Với
tôn giáo, việc đào tạo các linh mục tại các chủng viện một thời gian
dài bị cấm đoán, khó khăn, bao lớp người lỡ dở cả cuộc đời vì trường sở
bị phá tan, lớp học bị huỷ bỏ, đi cũng dở mà ở không xong. Cho đến nay,
họ vẫn là những con người bất hạnh mà không biết kêu ai.
Thời
gian đất nước hội nhập với quốc tế phải tuân thủ theo các nguyên tắc
của sân chơi chung, hệ thống các nhà dòng, các đại chủng viện được mở
lại nhỏ giọt nhưng có còn hơn không. Tuy vậy, chính sách đào tạo còn
nhiều điều đáng nói.
Tại các đại chủng viện, nhà nước cho giáo
viên vào giảng dạy bộ môn Mác – Lenin cho các chủng sinh dù ai cũng
biết là hệ thống chủng viện không có nhu cầu này. Điều lạ lùng nhất là
một thứ tôn giáo Mác – Lenin đã được áp đặt vào cho việc đào tạo của
tôn giáo khác. Điều này vẫn diễn ra hàng bao năm nay và hiện vẫn tiếp
diễn, tiền lương cho giáo viên các chủng viện phải trả?
Theo
các linh mục và các chủng sinh, trước khi được dự thi vào học ở các
chủng viện, lý lịch và điều kiện cần thiết phải qua là được nhà nước
chấp nhận duyệt danh sách mới có thể đi học, đi tu. Kế đó, hàng năm vào
những dịp hè hay những dịp thuận tiện, công an sẽ mời các chủng sinh để
làm việc riêng, viết báo cáo và cam kết (?), một việc mà không có bất cứ
văn bản luật pháp nào của hệ thống pháp luật quy định. (Điều này đã
được các linh mục kể lại).
Trước khi thụ phong linh mục, danh
sách chủng sinh phải được nhà nước “duyệt” và “cho phép”. Điều này đã
xảy ra quá lâu, thành một thứ tiền lệ phải chấp nhận một cách hết sức
vô lý bởi hết giấy này đến đòi thủ tục khác. Sau khi được thụ phong,
việc thuyên chuyển, bổ nhiệm các linh mục cũng phải được sự cho phép
của chính quyền. Từ việc các linh mục đi lại, ăn ở được chính quyền hết
sức quan tâm và không mấy dễ dàng. Trước đây, linh mục xứ Phủ Lý đã bị
nhà nước cấm bằng văn bản không cho ở tại nhà thờ Phủ Lý, Linh mục
Phêrô Bùi Ngọc Tuấn khi về quản nhiệm xứ cũng được chính quyền mời sang
nơi khác ở vì ở đó không có nhà xứ? Khi Ngài nhất định ở đó dù chỉ có
ngôi nhà tạm bằng tôn thì chính quyền mới phải chịu.
Với hàng
loạt những “hàng rào” như vậy, việc nhà nước hi vọng “tận dụng triệt để
những phần tử tiến bộ trong tôn giáo” là hoàn toàn có cơ sở. Tất nhiên
ở đây, chúng ta cần phải hiểu được ý nghĩa của từ “phần tử tiến bộ”
này. Bởi ở Việt Nam vốn hay dùng cách nói lái và nói ngược để diễn tả ý
nghĩa của nó!
Cho đến gần đây, ngay sau khi nhận chức (19/3/2005)
Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã mở đầu việc giành lại quyền quyết
định của Giám mục trong việc phong chức linh mục, bằng việc phong chức
công khai cho hai linh mục Nguyễn Văn Thật và
Nguyễn Văn Phượng ở Dòng Chúa cứu thế Hà Nội vào ngày 11/6/2005, dù
không được chính quyền chấp nhận. Tiếp theo Ngài đã phong chức linh mục
cho hai tu sĩ ở dòng Châu Sơn sau khi chính quyền tỉnh Ninh Bình cấm
cản Đức cha Giuse Nguyễn Văn Yến truyền chức cho 2 vị này.
Từ
đó, trong Giáo hội Việt Nam, các giáo phận và dòng tu về cơ bản đã
giành được quyền tự quyết trong việc phong chức linh mục mà nhà nước
không thể can thiệp. Điều đó khẳng định rằng không thể có
những điều phi lý tồn tại mãi mãi nếu chính nhân dân biết mình có quyền
gì. Ngoài ra cũng để các tổ chức tôn giáo, giáo dân hiểu những nghĩa vụ
và quyền của mình như thế nào, thoát khỏi cơ chế xin – cho vẫn đang là
một tai hoạ của nhân dân và cả dân tộc. Cơ chế đó đã ngang nhiên cướp đoạt quyền của người dân. Và cái cơ chế đó được ai sinh ra để phục vụ ai thì nhân dân đã rất rõ.
(Tuy
nhiên, không phải giáo phận nào cũng làm được điều này, hiện nay ở Phát
Diệm, một số tu sĩ vẫn khốn đốn vì nạn xin – cho mà không tận dụng
những cơ hội này để thụ phong nếu không được chính quyền cho phép. Thậm
chí, một số tu sĩ được gửi đi học ở Chủng viện Sao Biển, Nha Trang,
công an Ninh Bình đã có thể đến tận nơi bắt về mà Giáo phận vẫn im lặng
chấp nhận?).
Với hệ thống những quy định ngoại luật trong đào
tạo như vậy, việc các chủng sinh, các linh mục tương lai sơ sểnh để
công an nắm gáy là điều không khó. Và khi đã nắm được gót chân Asin,
thì việc quy hàng là điều không xa mấy nếu các cá nhân không có bản
lĩnh cần thiết và một sự đạo đức đủ mạnh để vượt qua.
Kết quả và hậu quả của những âm mưu và chính sách
Đời
sống linh mục và tu sĩ là đời sống tận hiến theo giáo luật quy định và
nhất là chính bản thân các linh mục, tu sĩ đã tự nguyện bỏ mình cho
tình yêu Thiên Chúa.
Tuy nhiên các linh mục vẫn là những con
người bình thường về thể xác và mọi mặt. Giáo dân Việt Nam có truyền
thống yêu quý và mến mộ các chủ chăn hết mình. Họ kính trọng và yêu mến
một cách thật lòng. Tất nhiên đó phải là những linh mục thánh thiện
trong con mắt của họ. Nếu linh mục đánh mất hình ảnh thánh thiện của
mình trong con mắt giáo dân, thì họ sẽ không còn đường lùi. Chính vì
vậy, công an nắm rất rõ điều này và những bí mật của các linh mục ngay
từ khi còn ngấp nghé bước vào đời tu cho đến từng bước đi trên con
đường phục vụ. Những khuyết điểm, các vấn đề đời tư được chiếu cố theo
dõi có hệ thống, và khi cần thiết sẽ được dùng có hiệu quả.
Hiệu
quả lớn nhất là khống chế các linh mục trong các hoạt động cộng đồng
của mình phải đi theo ý đảng, dù không hợp lòng dân. Nếu có ai đi chệch
“lề bên phải” thì lập tức nhận được những lời đe doạ không thương tiếc.
Và khi đó sự lựa chọn cho các linh mục thật khó khăn, nếu không đủ can
đảm, thì chuyện ngã vào vòng tay ma quỷ là chuyện không khó.
Khi
đã là linh mục, những vị được chọn vào hàng giám mục cũng phải được
thông qua bởi nhà nước, cơ chế đó đã làm nhiều vị không thể định hướng
cho mình khi có tham vọng được nâng lên vì khi đó “giáo hội một bên và
nhà nước một bên”. Nhiều vị đã không dám ăn, không dám nói chỉ sợ mất
lòng. Mới đây, một linh mục trẻ đã rất can đảm trả lời phỏng vấn nước
ngoài những vấn đề liên quan đến các sự kiện nóng bỏng của giáo hội,
ngay sau đó đã được cán bộ đến nhắc nhở: “Linh mục còn trẻ, đường phấn
đấu còn dài, nên giữ lời ăn tiếng nói…” Quả thật hết cách để có thể
bình luận thêm. Họ muốn rằng tất cả sống trong gọng kìm của sự sợ hãi
của thể chế công an trị làm mất dũng khí của những người can đảm.
Ngay
cả khi đã vào hàng giám mục, không thiếu những vị vẫn còn thể hiện sự
thiếu dũng cảm trong những hành động của mình mà giáo dân không hiểu họ
đang sợ hãi điều gì. Thậm chí chỉ có người đoán già đoán non là chắc
quá khứ đã có những vấn đề chỉ có công an và những vị ấy biết mà thôi.
Tôi đã từng gặp một cán bộ cấp cao, trong câu chuyện ông nói rằng: “Hồi
trước ở Thái Nguyên, có một linh mục còn hơn cả một bí thư chi bộ. Ngày
thành lập đảng, ông ta ôm hoa đến chúc mừng làm tôi phát ngượng, trong
khi các chi bộ thì không ai nhắc đến”.
Theo tìm hiểu thì
nhân dân cũng có mắt quan sát. Vị linh mục này đã không được lòng ngay
cả giáo dân, không ai đến thăm viếng, không ai đến dự lễ và xin lễ, nhà
xứ thành hoang vắng và đơn côi, nhà nước phải cấp cho một số tiền hàng
tháng để sinh sống. Hàng ngày tự xách túi đi chợ về nấu nướng ăn một
mình vô cùng bệ rạc.
Xét cho cùng thì cũng chẳng vinh quang gì
khi làm cán bộ hai mang như vị linh mục nọ. Chuyện đó đã xảy ra từ lâu,
tưởng rằng đó sẽ là những bài học cho những ai biết suy ngẫm.
Nhưng không, trưa nay 2/2/2009, tôi nhận được một thông tin từ người bạn là cán bộ ở Kim Sơn rằng: “Ông không về Kim Sơn mà xem, Toà Giám mục Phát Diệm đã cử người ôm hoa tới chúc mừng sinh nhật đảng đấy thôi”.
Thoạt nghe tôi cứ nghĩ chuyện đùa. Gọi điện đến linh mục Phạm Ngọc Khuê
– Tổng Đại diện Giáo phận Phát Diệm, linh mục Khuê xác định thông tin
đó là đúng làm tôi ngỡ ngàng.
Nội dung câu chuyện linh mục Khuê
cho biết: Toà Giám mục Phát Diệm đã cử ba linh mục là linh mục Nguyễn
Hồng Phúc (nhà thờ Phát Diệm) linh mục Bùi Ngọc Hoàng chính xứ Hướng
Đạo ở Ðồng Hướng, Kim Sơn, Ninh Bình, Linh mục Vũ Thế Hùng xứ Thuần
Hậu ở Ân Hoà, Kim Sơn, Ninh Bình cùng đến huyện uỷ mừng ngày sinh nhật
đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 2/2/2009.
Tuy nhiên khi hỏi đến
ý nghĩa việc đó cụ thể thì ngài nói: “Việc đó không bàn ở đây, không
hỏi” và cắt điện thoại cái rụp, gọi lại thì không nhấc máy.
Qua
điện thoại, linh mục Nguyễn Hồng Phúc cho biết: Theo sự uỷ nhiệm của
linh mục Tổng Đại diện, linh mục Phúc cùng hai linh mục trên được cử đi
cùng với đoàn của mặt trận huyện mừng ngày sinh nhật đảng, trong đó có
cả bên Phật giáo (Phật giáo quốc doanh) và bên Công giáo cho đủ bộ.
Trước đó có chuẩn bị lẵng hoa, nhưng sau có lẵng hoa của bên Phật giáo
và của Mặt trận. Bên Công giáo do linh mục Bùi Ngọc Hoàng dẫn đầu vì
ông là “Chủ tịch Uỷ ban Đoàn kết Công giáo”(!).
Theo linh mục
Phúc thì đây là do sự “chưa hiểu” (?) của linh mục Tổng Đại diện Phạm
Ngọc Khuê vì mới về cứ tưởng hàng năm vẫn “Mừng đảng, mừng xuân” nên
linh mục Khuê cho chuẩn bị lẵng hoa để chúc mừng, đến phút cuối có đoàn
mặt trận chuẩn bị lẵng hoa nên mới để lẵng hoa lại và đi với bên Phật
giáo.
Truyền hình báo chí nhà nước sáng nay đã quay lại đầy đủ
cảnh này có thể sẽ đưa lên cho dân chúng ngắm nhìn hình ảnh các linh
mục giáo phận Phát Diệm sống “tốt đời, đẹp đảng”?.
Quả thật đây
là sáng kiến độc đáo của linh mục Tổng Đại diện Giáo phận Phát Diệm,
chắc sắp tới nhiều nơi, nhiều chỗ phải học tập và làm theo phong trào
này?
Tôi thì không nghĩ vậy, hôm trước về Phát Diệm được giáo
dân cho biết: Sau vụ việc Thái Hà, Giáo phận Phát Diệm đã nhận lại được
chủng viện cũ của Giáo phận là khu Trường Thử Trì Chính sau 51 năm bị
chiếm dụng. Tuy gọi là nhận lại, nhưng thực chất là phải “mua lại” với
giá hơn 1 tỷ đồng chính tài sản của mình đã bị nhà nước mượn sử dụng
quá lâu mà không trả tiền thuê mướn?
Điều trớ trêu, là sau khi
mua lại, Giáo phận đã dự định tổ chức Thánh lễ tạ ơn ngay tại chính nơi
đó. Nhưng chỉ một ngày sau khi công an đến làm việc, thì việc cử hành
Thánh lễ tạ ơn đã được chuyển về Nhà thờ Chính Toà mà không có lý do
nào được công bố.
Trao đổi qua điện thoại, một số linh mục tỏ
ra khó hiểu với cách hành xử của linh mục Tổng Đại diện Giáo phận Phát
Diệm không chỉ trong việc này mà cả thời gian qua. Trong khi cả Giáo
hội không chỉ trong mà cả ngoài nước hiệp nhất cùng Tổng Giáo phận Hà
Nội, cùng hiệp thông với những biến cố ở Toà Khâm sứ và Giáo xứ Thái
Hà, giáo dân mong chờ vào hai giáo phận mạnh mẽ, đông đảo và giàu
truyền thống đạo đức nhất là Phát Diệm và Bùi Chu. Nhưng tịnh không có
những hoạt động và sự hiệp thông rõ nét từ hai giáo phận này? Vấn đề
này, chúng ta sẽ bàn trong một dịp khác.
Ngược lại, người ta thấy trên báo đảng, báo chí nhà nước hình ảnh và tin tức của linh mục Tổng Đại diện Phát Diệm đến chúc tết Tỉnh uỷ Ninh Bình từ rất sớm (16/1/2009). Bản tin nêu rõ: “Linh
mục Phạm Ngọc Khuê đã bày tỏ niềm vui trước sự quan tâm của tỉnh Ninh
Bình đến công tác tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi để các hoạt động
tôn giáo được diễn ra theo đúng pháp luật, góp phần xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, các giáo dân tích cực hăng hái tham gia các
phong trào phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa tại địa
phương, sống kính Chúa yêu nước.
Nhân dịp Tết nguyên đán
Kỷ Sửu, thay mặt linh mục, giáo sỹ, tu sỹ, giáo dân giáo phận Phát
Diệm, linh mục Phạm Ngọc Khuê đã chúc các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy một
năm mới an khang, thịnh vượng, mong kinh tế - xã hội trong tỉnh tiếp
tục phát triển, các Nghị quyết của Đảng ngày càng đi vào cuộc
sống, phục vụ cho lợi ích, quyền lợi của nhân dân”. Nguồn: http://baoninhbinh.org.vn/news/16/2DB543/Toa-giam-muc-Phat-Diem-chuc-Tet-Tinh-uy-Ninh-Binh
Như vậy, câu chuyện ngày xưa đâu phải đã qua, những câu chuyện ngày nay còn dài tập và nhiều tính bi kịch hơn.
Theo
lời chúc của linh mục Khuê, khi nghị quyết của Đảng, Nghị quyết 23 của
Quốc hội đi vào cuộc sống, thì dân Thái Hà và Toà Khâm sứ cũng như nơi
nơi trên toàn giáo hội Việt Nam có đòi cả trăm năm cũng sẽ được giải
quyết bằng chó, dùi cui và súng đạn để làm “dự án vườn hoang” là cùng.
Còn việc phục vụ lợi ích và quyền lợi của nhân dân hay của ai, thì nhìn
vào thực tế người dân không học hành cũng đã quá hiểu.
Chuyện các
linh mục mừng đảng rất sốt sắng mà quên mất mừng hoặc chia sẻ với giáo
hội là một nỗi đau dù không muốn cũng cần phải nói ra. Mặc dù điều này
có thể có mặt nào đó không có lợi, nhưng thực tế là thực tế và sự thật
vẫn là sự thật. Giáo hội cần đối mặt với những nhức nhối của chính mình
mới may chăng bước vững chắc trên con đường tìm chân lý và sự thật, hoà
bình.
Trở lại buổi chúc mừng này, chúng ta thấy dẫn đầu đoàn Công
giáo vẫn là một linh mục thuộc “đàn két công giáo” mà tổ chức này thì
chẳng ai lạ lẫm gì nó, bởi đã được nói đến quá nhiều. Nhưng nó vẫn cứ
tồn tại và “phát huy tác dụng” trong những công việc lập lờ đánh lận
con đen thay mặt Giáo hội để mừng đảng, mừng xuân, mừng Noel và nhận
những công lao, huân chương phần thưởng các loại bằng những thành tích,
đóng góp xương máu của giáo dân.
Chúng tôi cũng đã nói chuyện với
nhiều địa phương có “két” trong “đàn két” này. Đa số đã chán ngán cái
uỷ ban hữu danh vô thực, cái bóng ma lịch sử này. Ở Giáo phận Vinh,
Giám mục Paul Cao Đình Thuyên cho biết, hầu hết các linh mục trong cái
uỷ ban này đã không còn hoạt động nữa, nhưng tên vẫn được ghi lên cho
đủ bộ, họ không đi họp hành, vì vậy mà cuối năm vừa qua uỷ ban này
không thể họp được? Ngay cả một nữ tu ở Dòng Mến Thánh giá Xã đoài,
cũng đã già yếu, ốm đau chẳng họp hành gì, nhưng danh sách vẫn còn
ngang nhiên chiếm bảng vàng ở uỷ ban đó đến nay.
Quả là có một tổ
chức cực hay, gia nhập và dễ dàng và quyền lợi chính là ghi danh, hàng
năm được cấp tiền ăn ở, cấp vé máy bay họp hành, đỡ phải làm lễ và nhất
là đỡ phải vâng phục bề trên. Nhà nước cứ nuôi nó ở đó, sẵn sàng nuôi
quân ba năm để dùng một giờ như vụ Noel 2008 ở Hà Nội vừa qua.
Xét
cho cùng, những cá nhân và tổ chức đó chỉ là những công cụ, những
phương tiện không hơn không kém của đảng và nhà nước, được nuôi bằng
tiền của dân, mang danh Công giáo nhưng đi theo đường lối và phục vụ
mục đích của đảng vô thần cộng sản.
Ngoài những tổ chức như “đàn két công giáo” còn nhiều hình thức và tổ chức khác nữa để tận dụng triệt để “những phần tử tiến bộ” trong tôn giáo phục vụ sự nghiệp cách mạng và lợi ích của đảng. Quá nhiều dẫn chứng để có thể nói ở đây.
Tuy
nhiên bài viết đã dài, và trong một chừng mực nào đó, thì nhà nước đã
không hiểu hết về đức tin của người Công giáo. Giáo dân Công giáo dù
một thời gian quá dài được đối xử như những công dân hạng hai, (trừ
những người theo đóm ăn tàn), nhưng vẫn nhận thức hết sức đầy đủ về bổn
phận của mình và có những nhận xét hết sức đúng đắn và tinh tế. Bất cứ
một ai, kể cả hàng giáo phẩm, linh mục hay tu sĩ đều được sự tin yêu
nhiều khi đến thái quá của giáo dân. Nhưng khi bộ mặt thật phản Chúa
bán Giáo hội đã rõ, thì họ được lưu danh bằng bia miệng ngàn đời và
thành những điển tích, những bài học cho con cháu muôn đời sau biết mà
“tìm lành lánh dữ”.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh, không
ai có thể hạnh phúc nếu từ bỏ con đường chân chính của mình bởi những
cám dỗ từ cuộc sống. Những nhân vật một thời lừng lẫy tiếng tăm, tưởng
chừng như ngồi mãi trên đỉnh cao danh vọng, nhưng đâu ngờ cũng có ngày
sụp đổ không thể cưỡng nổi con sóng của lòng dân, của lịch sử.
Những
tượng đài Lenin, của Xtalin được buộc dây ngang cổ kéo lê trên đường
hay bị cần cẩu gạt nằm chỏng chơ trên bãi rác đã nói lên điều đó. Những
nhân vật lịch sử đã qua trong chế độ này cũng đã dần dần ngấm đòn của
sự phản trắc niềm tin và lý tưởng của mình. Chẳng có thể nào là một
người đáng tin cậy khi ngang nhiên phản bội lại chính lý tưởng của mình
đã thế hứa và tuyên xưng bằng chính cả niềm tin và tâm hồn chỉ vì những
quyền lợi vật chất hoặc sự ích kỷ hư ảo cá nhân.
Thiết nghĩ
rằng, sự am tường và viễn kiến chính xác của Khâm mạng Toà thánh John
Dooley và các giám mục giáo tỉnh miền bắc những năm 1955 thật sáng
suốt. Các ngài đã nghĩ đến những điều mà ngày nay, hơn nửa thế kỷ sau
Giáo hội đang phải đối mặt. Chính vì thế ngay từ những ngày đó, các
ngài đã thẳng thừng treo chén những vị linh mục tham gia tổ chức này.
Tiếc rằng những mụn nhọt kia vẫn lì lợm bám trên cơ thể giáo hội như
một căn bệnh nguy hiểm mà chưa được dùng thuốc đặc trị.
Cộng
đồng dân Chúa Việt Nam một lần nữa cần xét mình ăn năn một cách thành
thật nhất, để cùng nhau xây dựng một Giáo hội Tông truyền, thánh thiện,
thông công và hiệp nhất. Dù đó có thể là những cuộc đại phẫu đau đớn,
nhưng không thể không làm nếu muốn có một cơ thể lành mạnh cường tráng
với một niềm tin tinh thần mãnh liệt trong cơ thể giáo hội.
Hà nội, ngày 2/2/2009
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Nguồn: J.B Nguyễn Hữu Vinh
|