Ngô Nhân Dụng
Tác giả Mặc Ngôn và dịch giả Trần Trung Hỷ
Nhiều
mạng lưới (blogs) ở Việt Nam đang ồn ào về cuốn tiểu thuyết Ma Chiến
Hữu, của Mặc Ngôn dịch từ tiếng Hoa sang tiếng Việt. Nhiều người đã đặt
câu hỏi tại sao một nhà văn Trung Quốc như Mặc Ngôn dám viết truyện đặt
lại vấn đề cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 còn khi các nhà văn Việt Nam
nhắc đến vụ đó, thí dụ trong tập truyện Rồng Ðá của Vũ Ngọc Tiến và Lê
Mai, thì sách bị tịch thâu và nhà xuất bản bị đóng cửa?
Chỉ đọc
những lời bình trên các blogs thì hiểu lý do chính gây nỗi bất bình là
những lời đối thoại của những hồn ma lính chiến trong tiểu thuyết của
Mặc Ngôn. Họ ca tụng việc quân Trung Quốc đi đánh một nước ở phía Nam,
mà tác giả tế nhị không gọi thẳng tên là Việt Nam. Như khi độc giả
người Việt nghe lời của vị chính ủy sư đoàn nói trong sách nói, “chúng
ta hy sinh vinh quang, quá khứ của chúng ta là vinh quang, lúc này cũng
vinh quang, tương lai cũng vinh quang. Bất kỳ sự hoài nghi nào về vinh
quang của chúng ta đều là sai lầm, những sai lầm cực kỳ nghiêm trọng!”
Trong
tiểu thuyết có những lời quân Trung Quốc chúc nhau giết được nhiều địch
để rạng danh quân đội anh hùng. Tất nhiên người Việt nào đọc cũng phải
động lòng. Nhất là tờ báo Hà Nội Mới đã viết một bài ca ngợi Hứa Thế Hữu,
viên tướng chỉ huy các trận đánh vào Cao Bằng là Lạng Sơn năm 1979. Ông
tướng này cũng được giới thiệu là người chỉ huy trận chiến chiếm Hoàng
Sa năm 1974, trong khi Hải quân Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ tổ quốc.
Nhà xuất bản Văn Học viết lời giới thiệu cuốn truyện ngay trang bìa càng làm người đọc sôi giận. Họ ca ngợi sách này là “Một cách nghĩ khác về chiến tranh; và một cách ca tụng riêng về chủ nghĩa anh hùng.” Nếu có một “chủ nghĩa anh hùng” trong đó thì tất nhiên là anh hùng đối với người Trung Quốc, còn với người Việt thì không.
Nhưng
cũng nhiều người không đồng ý với thái độ phẫn nộ về những lời lẽ trong
cuốn truyện của Mặc Ngôn. Vì tiểu thuyết là tiểu thuyết. Thực ra nhà
văn này có một dụng ý khác hẳn. Nhiều người thấy chủ ý của Mặc Ngôn là
chống chiến tranh, nói riêng chống ngay cuộc xâm lăng năm 1979. Ông mô
tả những “chiến hữu trùng phùng” gồm những nông dân thất học bị bắt
lính đẩy ra mặt trận rồi chết uổng, trong một cuộc chiến tranh vô
nghĩa. Mặc Ngôn kể chuyện này, để “phê phán thói dối trá trong xã hội Trung Quốc nói chung và quân đội nói riêng,”
như nhận xét của một độc giả. Nhân vật Tiền Anh Hào chưa giết được quân
địch nào đã chết, chỉ vì anh tiểu đội trưởng có cái mông to quá, nằm
xuống chỗ ẩn mà mông vẫn nhô lên để bên địch phát giác ra và bắn. Mặc
Ngôn vẫn có lối văn hài hước và bi thương đến rớt nước mắt như vậy.
Nhưng
phần lớn các người góp ý trên các blogs không nhằm phê phán Mặc Ngôn. Ý
kiến mạnh nhất, nhiều người nói lên nhất, là phê phán đảng Cộng Sản
Việt Nam đã cho xuất bản cuốn tiểu thuyết này, trong khi cấm các nhà
văn trong nước không được viết gì về cuộc chiến tranh Việt-Trung năm
1979. Tức là, “Người Trung Hoa được nói, người Việt chỉ được nghe thôi.”
Cũng
có người bênh vực chính quyền Cộng Sản trong việc xuất bản sách này. Có
người ví việc cho xuất bản cuốn sách này ở Việt Nam cũng tương tự như
bên Mỹ cho in bản dịch cuốn “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, trong
đó ông kể chuyện những cảnh thương tâm khốn khổ của người lính miền Bắc
trong cuộc nội chiến Việt Nam trước năm 1975.
Nhưng lời bênh vực
này lập tức bị phản đối. Vì Mỹ là xứ tự do, người Mỹ tự do in cuốn
truyện của Bảo Ninh, nhưng chính phủ Mỹ không bao giờ cấm các cuốn sách
trong nước họ mổ xẻ về cuộc chiến đó. Ngay trong thời còn chiến tranh
đã có biết bao nhiêu sách ở Mỹ mang tính chất phản chiến. Ở Việt Nam
khác hẳn. Truyện ngắn mang tên “Chú Mìn Phủ và tôi “ của Vũ Ngọc Tiến
trong tập truyện “ Rồng Ðá” do nhà xuất bản Ðà Nẵng in đã bị đảng Cộng
Sản lên án nặng nề.
Trong truyện này tác giả kể chuyện chiến
tranh giống khung cảnh cuộc chiến Việt-Trung năm 1979; ông cũng nêu lên
những ý nghĩ phản chiến. “Sự thắng bại của cuộc chiến nằm trong dăm ba
cái đầu lạnh, còn dân chúng hai bên mãi mãi là kẻ chiến bại, mãi chỉ là
công cụ giết người mà thôi.” Có lúc lính hai bên chửi nhau, họ cũng chỉ
dùng “toàn những lời lẽ của mấy ông cán bộ tuyên huấn hai bên, chứ họ
có hiểu gì đâu chứ!” Ðối chiếu với cảnh con người đối với con người dã
man trong thời chiến là cảnh những năm sau này, khi hai nước Cộng Sản
Việt Nam và Trung Quốc thân thiện, hợp tác. Tay “lão bản” Trung Quốc
nuôi đám đàn em là viên chức người Việt, bị bắt trong ổ mãi dâm. Vũ
Ngọc Tiến viết “...biết đâu mai kia hai thằng viên chức mạt hạng này có
tiền mua chức sẽ vênh vang cái mặt thớt răn dậy quần chúng, hay sang
bên kia cửa khẩu ký kết văn bản ‘hợp tác toàn diện...’”
Có lẽ
bốn chữ “hợp tác toàn diện” này là phạm húy nặng nhất. Ðó là những chữ
đã được Nông Ðức Mạnh dùng khi sang Bắc Kinh ký kết, ông huênh hoang ca
ngợi “hợp tác chiến lược và toàn diện” giữa hai đảng Cộng Sản. Bộ máy
kiểm duyệt của đảng Cộng Sản Việt Nam không để cho những chữ “sỏ lá” đó
lọt qua! Ðó chắc là một lý do khiến cuốn Rồng Ðá bị cấm, ngoài lý do
tác giả dám khơi lại chuyện cuộc chiến tranh tàn khốc giữa hai nước
“đồng chí anh em.”
Khi đối chiếu hành động của đảng Cộng Sản
Việt Nam cấm cuốn truyện Rồng Ðá, với việc in bản dịch cuốn Ma Chiến
Hữu, giới trẻ ở trong nước phải phẫn nộ. Nhiều người lên án đảng Cộng
Sản đã theo một chủ trương “văn hóa nô dịch” khi cho in truyện của Mặc
Ngôn mà lại cấm sách của Vũ Ngọc Tiến và Lê Mai; không những thế còn
làm tội đóng cửa nhà xuất bản Ðà Nẵng. Có người lên án “đây là diễn
biến hòa bình,” theo lối nói của nhà thơ Bùi Minh Quốc, trong đó Cộng
Sản Trung Quốc nhắm điều khiển cả nước Việt Nam bằng cách nắm cả văn
hóa tư tưởng của đảng Cộng Sản Việt Nam.
Cũng có người bênh vực
đảng Cộng Sản Việt Nam, cho là quyết định in cuốn truyện của Mặc Ngôn
là một quyết định riêng của nhà xuất bản Văn Học, mà cấp trên trong
đảng Cộng Sản không biết. Nhưng lý luận này đã bị bắt bẻ, nêu lên rằng
chế độ kiểm soát của đảng Cộng Sản rất chặt chẽ: “Ðể xuất bản một
cuốn sách cần phải qua khá nhiều khâu chuẩn bị, trong đó việc quản lý
từ phía đảng và nhà nước. Việc cuốn sách này được ra đời cho thấy rõ có
khi đây là chủ trương của ai đó!”
Ai đó? Chỉ có Bộ Chính
Trị đảng Cộng Sản Việt Nam chịu trách nhiệm. Cho nên có người không
ngần ngại lên án đảng Cộng Sản có chủ trương cấm người Việt nói, chỉ
được nghe người Trung Quốc nói thôi. Nhà văn Trung Quốc Mặc Ngôn có
quyền viết về “Nỗi buồn chiến tranh” còn trong những hồn ma lính Trung
Quốc, nhà văn Vũ Ngọc Tiến không được phép kể chuyện những người lính
Việt, dù hai bên cùng dự một cuộc chiến tranh vô nghĩa.
Cuộc
thảo luận về bản dịch cuốn tiểu thuyết Ma Chiến Hữu của Mặc Ngôn cuối
cùng đi tới một kết luận không tránh được. Ðó là lên án chế độ độc tài
đảng trị. Ngay cả một người bên vực chế độ Hà Nội, coi việc xuất bản
tiểu thuyết Ma Chiến Hữu chỉ là một hành động đơn lẻ của một nhà xuất
bản, cũng phải công nhận là việc in cuốn sách này trong lúc cả nước
Việt Nam không ai được phép nhắc đến cuộc chiến tranh Trung-Việt năm
1979, là vô ý thức, do chế độ độc tài mà ra. Một người viết, “Ðây là một triệu chứng của một căn bệnh hiểm nghèo xuất phát từ chứng độc tài.” Lời kết tội đảng Cộng Sản rất rõ, nguyên văn: “Họ đòi quản hết, nhưng thực tế là không quản được bất cứ cái gì, tất cả đều loạn cào cào châu chấu lên hết!”
Ðối
với người Việt Nam sống ở trong nước thì cái tội “đòi quản hết, nhưng
thực tế là không quản được bất cứ cái gì” không chỉ nằm ở trong lãnh
vực báo chí, xuất bản mà thôi. Ðảng Cộng Sản tự bản chất theo chủ
trương độc tài toàn trị. Họ muốn nắm đầu người dân nên cấm không ai
được tự do phát biểu. Nhưng trong khi thi hành chính sách toàn trị đó
đảng Cộng Sản còn làm những việc khác tàn dân, hại nước không thể nào
tha thứ được. Họ có “quản” được đám tham quan ô lại mà đảng đã sinh ra
và nuôi dưỡng hay không? Cuộc thảo luận về tiểu thuyết Ma Chiến Hữu sẽ
giúp cho đồng bào trong nước, nhất là giới thanh niên thấy rõ hơn bản
chất độc tài toàn trị này. Người dân đã công nhận, không cần bàn cãi
nữa: “độc tài là một căn bệnh hiểm nghèo!”
Thế bao giờ mới lo chữa bệnh?
Ngô Nhân Dụng Nguồn: Người Việt Online
|