a. Kinh tế vĩ mô méo mó
Xuất
phát từ thể chế chính trị toàn trị cho nên Việt Nam là nơi duy nhất
trên thế giới có nền kinh tế thị trường “định hướng xã hội chủ nghĩa”!
Tại Việt Nam thì tất cả mọi lĩnh vực đời sống và xã hội đều phục vụ cho
chính trị, kinh tế cũng vậy. Trong các dự án kinh tế, chính quyền Việt
Nam không quan tâm nhiều đến khía cạnh thương mại mà chỉ quan tâm đến
mục tiêu chính trị. Ví dụ nhà máy lọc dầu Dung Quất, thuỷ điện Sơn La
hay mới nhất đây là dự án khai thác quặng bô xít ở Tây Nguyên.
Cũng
do việc lấy mục tiêu chính trị áp đặt lên kinh tế nên chính quyền Việt
Nam đã lấy doanh nghiệp nhà nước (DNNN) làm trụ cột cho nền kinh tế đất
nước. Đây là chủ trương mang nặng tính chính trị và trái với qui luật
phát triển tự nhiên. Chính quyền đã dành cho DNNN tất cả ưu đãi, hơn
70% nguồn lực của cả nước đã đổ vào khu vực này, trong khi đó hiệu quả
mang lại rất nhỏ. Các DNNN này do được che chở và ưu đãi nên đã không
thể cạnh tranh một cách bình thường, đồng thời các DNNN còn trở thành
các “lãnh địa” do các “sứ quân” cát cứ và thống trị, các sứ quân như
điện lực, xăng dầu, xây dựng cơ bản…tha hồ làm mưa làm gió trên thị
trường gây điêu đứng cho nhân dân và người tiêu dùng. Khi cần thiết các
sứ quân này sẵn sàng chống lệnh của “thiên triều Ba Đình”, vụ tranh cãi
giữa Tập đoàn Điện lực và Tập đoàn Dầu khí đang diễn ra hay việc ngành
Điện lực chống lại việc cải tổ của Bộ Công thương là minh chứng cho
tình trạng “sứ quân” trong nền kinh tế Việt Nam.
Tình trạng sứ
quân trong nền chính trị và kinh tế Việt Nam đã ăn sâu và trở nên rất
nghiêm trọng, ngay cả quân đội và công an cũng như các cơ quan đảng
(các cấp uỷ) cũng có đơn vị làm kinh tế riêng và hoàn toàn độc lập. Khi
quân đội, công an cũng “đi buôn” thì ai dám đụng vào họ và như vậy nhà
nước sẽ thất thu thuế nghiêm trọng, trong khi thị trường bị méo mó vì
cạnh tranh không lành mạnh.
Không chỉ có thế, do sự tham nhũng
tràn lan từ trên xuống dưới nên hàng lậu đã tràn vào Việt Nam như cơn
lũ. Chính hàng lậu (chủ yếu từ Trung Quốc) đã góp phần bức tử nền kinh
tế Việt Nam.
Sức mạnh của chính quyền Việt Nam hiện đang dựa vào
quân đội, công an và bộ máy hành chính đông đảo. Lực lượng này đã tiêu
tốn một khoản ngân sách khổng lồ từ nguồn ngân sách rất eo hẹp của Việt
Nam.
b. Kinh tế vi mô nhỏ bé, manh mún.
Nhân nào thì quả đấy, do kinh tế vĩ mô bị méo mó thành ra nền kinh tế vi mô đương nhiên là phải còi cọc, nhỏ bé và manh mún.
Xương
sống của một nền kinh tế phát triển bắt buộc phải là các doanh nghiêp
tư nhân (DNTN). Thế nhưng tại Việt Nam các DNTN luôn bị o ép và đối xử
không bình đẳng, khó có cơ hội để tiếp cận với các nguồn vốn ưu đãi của
quốc tế cũng như chính phủ (do bị các DNNN hút hết vốn).
Các
DNTN Việt Nam do phải cạnh tranh một cách không cân xứng với các DNNN
và phải đối mặt với hàng lậu, hàng trốn thuế, hàng nhái nên bắt buộc
phải tìm cách hạ giá thành, điều này đồng nghĩa với việc chất lượng sẽ
giảm và khi chất lượng giảm thì người tiêu dùng sẽ quay lưng và doanh
nghiệp tồn tại trong lay lắt là điều mà ai cũng thấy được.
Các
doanh nghiệp xuất khẩu thì do thiếu thông tin, thiếu thương hiệu nên
chỉ còn cách đi làm gia công cho các hãng nước ngoài theo kiểu “lấy
công làm lãi” mà thực chất là bán sức lao động (của người lao động) một
cách rẻ mạt, “đổi mồ hôi lấy bát cơm”. Các doanh nghiệp khác như nông
nghiệp hay khai thác thì đành bán sản phẩm thô do ngành chế biến không
phát triển. Cũng do thiếu văn hoá kinh doanh và các chế tài cần thiết
của chính phủ nên ngay cả các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản thô
cũng cạnh tranh một cách không lành mạnh, bài báo “Đại gia và thanh long” của nhà báo Huy Đức đã phản ánh một phần thực tế này.
Cho
đến giờ Việt Nam chưa có một công ty nào mang tầm cỡ khu vực Đông Nam Á
chứ chưa nói đến tầm cỡ thế giới. Đọc hồi ký của các tỉ phú sáng lập ra
các công ty nổi tiếng của Nhật, Hàn Quốc…chúng ta đều thấy đó là các
công ty của các DNTN và dấu ấn của cá nhân lãnh đạo đã thể hiện rõ
trong sự thành công. Các DNNN ở Việt Nam mà giám đốc là do “bổ nhiệm”
là “người của nhà nước” thì các DNNN đó không bao giờ phát triển được.
2. Hướng đi nào cho nền kinh tế Việt Nam?
Cải
cách thể chế chính trị, tách bạch giữa ý chí chính trị và mục tiêu phát
triển kinh tế. Trả lại quyền điều tiết thị trường cho các doanh nghiệp
và người tiêu dùng, nhà nước chỉ nên làm những việc mà tư nhân không
thể làm được. Đồng thời nhà nước phải hạn chế tối đa sự can thiệp của
mình vào nền kinh tế, nhà nước chỉ giữ vai trò trọng tài và chế tài
trong các quan hệ kinh tế để cho thị trường phát triển và cạnh tranh
lành mạnh, tuyệt đối không để các doanh nghiệp lớn chèn ép các doanh
nghiệp nhỏ bằng cách bán phá giá hoặc cạnh tranh theo kiểu “lấy thịt đè
người”.
Nhà nước phải thật lòng trong việc chống tham nhũng,
chống buôn lậu, chống làm hàng giả. Phải tôn trọng và tạo cơ hội đồng
đều cho tất cả các thành phần kinh tế. Bãi bỏ việc ưu đãi cho các doanh
nghiệp FDI trong các khu công nghiệp tập trung, tất cả các doanh nghiệp
đều tuân thủ một bộ luật duy nhất là Luật kinh doanh (theo đề nghị của
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên)
Ý kiến của nhà kinh tế Vũ Thành Tự
Anh là tiếp tục tư nhân hoá (cổ phần hoá) các xí nghiệp nhà nước thuộc
khối DNNN. Tuy nhiên nhà nước phải rất cẩn thận và minh bạch nếu không
những kẻ có thế lực chính trị sẽ biến tài sản chung thành của riêng.
Bài học dành cho các thế lực đang có âm mưu này là tấm gương các nhà tỉ
phú Nga tham lam cấu kết với quan chức thời tổng thống En xin mua lại
các nhà máy (của nhà nước) với giá rẻ mạt và sau đó kiếm được hàng chục
tỉ đô la trong một thời gian ngắn đã phải trả giá đắt khi Pu tin lên
nắm quyền. Kẻ nhanh chân thì chạy thoát ra nước ngoài (Boris
Berezovsky, Vladimir Gusinsky) kẻ chậm chân thì bị tù mọt gông (Mikhail
Khodorkovsky).
Cũng theo ông Vũ Thành Tự Anh thì chính quyền cần
tách bạch giữa việc kinh doanh của các doanh nghiệp với các nhiệm vụ xã
hội (ví dụ việc làm từ thiện), trợ cấp xã hội hay an sinh xã hội là
việc của chính phủ chứ không phải việc của doanh nghiệp.
Một ý kiến khác rất đáng ghi nhận của ông Nguyễn Trần Bạt trong bài viết “Việt Nam với chiến lược xây dựng hai nền kinh tế”,
ông cho rằng “nhiệm vụ chiến lược” của Việt Nam là phải xây dựng hai
nền kinh tế: Kinh tế phát triển và kinh tế bản thể (thị trường xuất
khẩu và thị trường nội địa). Hai thị trường này cần phát triển song
song, tránh việc dồn tất cả các nguồn lực cho thị trường xuất khẩu mà
bỏ quên thị trường trong nước. Với hơn 80 triệu dân, Việt Nam được các
doanh nghiệp lớn trên thế giới đánh giá là “tiềm năng” và muốn có thị
phần ở Việt Nam, trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn bỏ
ngỏ thị trường này.
Đành rằng thị trường xuất khẩu là rất khổng
lồ, đơn đặt hàng nhiều với số lượng lớn, tiền thu nhanh và bằng ngoại
tệ mạnh…thế nhưng thị trường này tiềm ẩn nhiều rủi ro: không ổn định,
khó tiên liệu và nắm bắt, phụ thuộc vào sự thất thường của thị trường.
Thị
trường nội địa tuy nhỏ (vì đại đa số người Việt còn nghèo, tâm lý thích
hàng ngoại và sợ hàng nội do chất lượng kém), sức tiêu thụ yếu, đồng
vốn thu hồi chậm…thế nhưng thị trường này lại rất ổn định, dễ nắm bắt
tâm lý và nhu cầu của người tiêu dùng (vì là sân nhà, người nhà) nên
các doanh nghiệp có thể kịp thời thay đổi kế hoạch sản xuất và kinh
doanh cho phù hợp với hoàn cảnh.
Trong cuộc khủng hoảng này
các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới cảm nhận được
sự quan trọng của thị trường nội địa, tuy nhỏ bé nhưng vẫn có thể duy
trì được sản xuất trong khi các doanh nghiệp hoàn toàn dựa vào xuất
khẩu có nguy cơ đóng cửa và phá sản.
Hướng đi cho các doanh
nghiệp hướng tới thị trường nội địa là phải nâng cao chất lượng sản
phẩm, tạo ra sự khác biệt cho mình, tránh chạy theo hàng rẻ tiền của
Trung Quốc.
Cố gắng tạo dựng thương hiệu và gây dựng uy tín,
tuy mất thời gian nhưng là việc không thể không làm trong kinh doanh
hiện đại. Phải thay đổi tư duy là hàng đẹp đem xuất khẩu còn hàng rẻ
thì bán trong nước, phải làm ngược lại là hàng trong nước phải đẹp và
tốt hơn (hoặc bằng) hàng xuất khẩu (như ý kiến của ông Nguyễn Trần
Bạt).
Các doanh nghiệp phải tư vấn và hướng dẫn cách sử dụng
các mặt hàng mới, nêu rõ ưu và khuyết điểm so với hàng ngoại nhập (quan
trọng là phải thành thật), tiếp thị và quảng bá mạnh mẽ hơn đến người
tiêu dùng, ví dụ in catalog mẫu mã hàng hoá kèm theo giá cả cụ thể và
nơi hàng đang bày bán, bằng tờ rơi hay trên internet…(nhiều công ty đã
làm) và tôi tin rằng doanh nghiệp nào có quyết tâm sẽ thành công. Trong
lĩnh vực may mặc một vài thương hiệu Việt đã có chổ đứng trên thị
trường nội địa ví dụ Việt Tiến, Thái Tuấn…
Bất cứ một cuộc khủng
hoảng nào dù lớn dù nhỏ thì đa số người dân nghèo là chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ và gánh nhiều thiệt thòi nhất. Đáng buồn là thành phần nghèo
khổ lại chiếm số đông ở Việt Nam vì vậy đứng trên khía cạnh chính trị
và xã hội thì ý kiến của ông Nguyễn Trần Bạt rất đáng lưu tâm. Ông cho
rằng
“con
người phải là mục tiêu của mọi chương trình phát triển”, việc “lấy tăng
trưởng GDP hay lấy tăng trưởng việc làm làm mục tiêu là phiến diện”.
“Phát triển việc làm và chất lượng của nó để tác động một cách tích cực
vào sự tiến bộ của đời sống con người mới là mục tiêu lâu dài”.
“Từ
chỗ xác định được mục tiêu lâu dài là con người và sự phát triển đời
sống của con người, chúng ta sẽ có những thái độ xã hội, thái độ chính
trị thoả đáng và những chiến lược kinh tế phù hợp để đạt được mục tiêu
ấy”.
Cuộc
khủng hoảng lần này còn kéo dài và hậu quả để lại sẽ rất lớn, chính
quyền Việt Nam không nên giấu giếm sự thật mà cần cập nhật thông tin
một cách đầy đủ và chính xác để toàn dân và xã hội tìm cách đối phó.
Các vị lãnh đạo nên phát biểu có trách nhiệm, tránh kiểu phát ngôn bừa
bãi và vung vít như ông Nguyễn Tấn Dũng
rằng vào tháng 5/2009 Việt Nam sẽ thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng. Tuyên
bố này của ông Dũng khiến giáo sư Trần Hữu Dũng, chủ nhân web Viet-Studies
hài hước bình luận rằng nếu đúng như ông Dũng nói thì Việt Nam vào
tháng 5 sẽ thay Mỹ làm đầu tàu kinh tế kéo thế giới ra khỏi khủng hoảng!
Trước
khi kết thúc bài viết, tưởng cũng nên nhắc đến một sự việc có vẻ thuộc
về kinh tế nhưng hệ quả là rất lớn về mặt chính trị mà nhà nước này xem
ra lại không chịu nhìn rõ: việc khai thác bô xít tại Tây Nguyên. Lãnh
đạo Việt Nam cần dừng ngay lại dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên, dự
án này không những không mang lại lợi ích kinh tế mà còn huỷ hoại môi
trường sống và văn hoá người Tây Nguyên. Đồng thời dự án này rất nguy
hiểm cho an ninh quốc gia và có nguy cơ chia cắt đất nước. Nhà văn
Dương Thu Hương đặt câu hỏi là sự việc sẽ đi đến đâu nếu Trung Quốc (bí
mật) cung cấp vũ khí và tiền bạc cho các dân tộc Tây Nguyên vốn đang
hiềm khích rất nặng với chế độ cộng sản do chính quyền đã thực thi các
chính sách rất sai lầm đối với đồng bào Tây Nguyên?
Việt Hoàng
(Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên)