Ngô Nhân
Dụng
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=91995&z=7
Tại sao tầu Trung Quốc
cố ý đụng độ tầu Mỹ ở Biển Ðông nước Việt vào cuối tuần vừa qua? Có người giải
thích là giới lãnh đạo Bắc Kinh muốn thử coi ông tổng thống mới của nước Mỹ sẽ
phản ứng thế nào. Có giả thuyết coi vụ gây rối xẩy ra vì ông đô đốc chỉ huy hạm
đội Thái Bình Dương của Mỹ tới thăm Hà Nội. Gây ra vụ rắc rối này là bắn một mũi
tên nhắm 2 con chim, Mỹ và Việt Nam.
Năm 2001 chính quyền
Trung Quốc đã từng thử trắc nghiệm cựu Tổng Thống George W. Bush một lần, ba
tháng sau khi ông Bush nhậm chức. Phi cơ chiến đấu Trung Quốc đã bay sát một
chiếc máy bay thám thính của hải quân Mỹ, phi công Mỹ phải xin phép hạ cánh khẩn
cấp xuống một phi trường ở đảo Hải Nam, trong Vịnh Bắc Việt. Năm đó 24 nhân viên
phi hành đoàn chỉ được thả sau 11 ngày ăn cơm Tầu, sau khi chính phủ Mỹ tỏ ý ân
hận, mặc dù không chính thức xin lỗi. Từ đó, mối bang giao giữa Bắc Kinh và
Washington thắm thiết suốt 8 năm trời và máy bay Trung Quốc không bao giờ lượn
ép gần phi cơ thám thính của Mỹ nữa.
Năm nay, tân Tổng Thống
Mỹ Barack Obama mới tuyên thệ chưa được 7 tuần, năm chiếc tàu Trung Quốc đã vây
bủa, ngăn chặn, phá đám công việc thăm dò biển của một chiếc tầu thám thính Mỹ
trong vùng biển quốc tế cách đảo Hải Nam 75 dặm. Tầu Mỹ dùng vòi rồng phun nước
đuổi các tầu Trung Quốc đi, nhưng các thủy thủ Trung Hoa đã cởi quần áo ngoài và
tiếp tục lướt sóng xông tới. Khi tầu Impeccable báo hiệu xin mở đường để tránh
đi nơi khác, vẫn còn chiếc tầu Trung Quốc chặn ngang đường, cách nhau chỉ có 8
mét. Trước khi xẩy ra vụ này, tầu Hải quân Trung Quốc đã quấy nhiễu một tầu thăm
dò đáy biển khác của Mỹ trong vùng Hoàng Hải ở phía Bắc.
Vào cuối tuần, Bộ Quốc
Phòng Mỹ ngỏ lời than phiền về những hành động bất thân thiện và nguy hiểm trên.
Ðầu tuần này Bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã đáp lại, họ tố cáo tầu Mỹ vi phạm công
ước quốc tế về luật biển, xâm phạm ranh giới 200 dặm thuộc vùng kinh tế độc
quyền trên biển (exclusive economic zone, EZZ) của họ. Phát ngôn viên Bộ Ngoại
Giao Trung Quốc nói rất mạnh, gọi hành động của tầu thủy Mỹ là “không thể chấp
nhận được.”
Công ước năm 1982 của
Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) ấn định lãnh hải của các nước là 12 hải lý, nhưng xác
định mỗi nước có quyền khai thác tài nguyên trong vòng 200 hải lý, gọi là EEZ.
Công ước này cho phép tầu thủy các nước được đi vào vùng kinh tế của nước khác,
trong đó có quyền thám thính; nhưng không nói gì đến các tầu quân sự. Trung Quốc
ký vào bản công ước này năm 1996, còn chính phủ Mỹ chưa ký, mặc dù vẫn tự nguyện
tôn trọng phần lớn các quy định trong 320 điều khoản và 8 bản phụ đính trong
công ước này.
Ngày Thứ Tư, Ngoại
Trưởng Dương Khiết Trì đã tới gặp Ngoại Trưởng Hillary Clinton tại Bộ Ngoại Giao
Mỹ, hai bên tuyên bố sẽ cố gắng tạo không khí hòa dịu. Ông Dương Khiết Trì tuyên
bố cuộc bang giao hai nước đang bắt đầu những bước tốt đẹp. Trong chuyến đi Bắc
Kinh tháng trước, bà Clinton đã không lên án những vụ Trung Quốc vi phạm nhân
quyền, mà nhấn mạnh vào liên hệ kinh tế, đề cao trách nhiệm chung của hai nước
phải cùng giúp thế giới thoát cơn suy thoái.
Nếu bà Clinton đã mở
đường hòa hiếu như vậy thì tại sao tầu Trung Quốc lại quấy rối tàu Mỹ ở ngoài
Biển Ðông nước Việt Nam? Họ có thể nhắm vào cả nước Mỹ lẫn Việt Nam.
Ðây có thể là một hành
động do giới quân nhân lãnh đạo Bộ Quốc Phòng Bắc Kinh xướng xuất, Bộ Chính Trị
cộng sản Trung Quốc có thể biết, nhưng cũng có thể không biết trước. Ở nước nào
cũng vậy, các tướng lãnh có thể gây ra những rắc rối nhỏ để cho các nhà chính
trị phải biết kính nể vai trò quan trọng của họ. Giới quân sự vẫn coi là họ chịu
trách nhiệm về an ninh quốc gia, một vấn đề phức tạp và nặng nề mà những người
dân sự không hiểu nổi.
Trong hành động gây rối
với tầu Mỹ, giới quân sự Trung Quốc muốn thông báo cho thế giới biết rằng vùng
biển Nam Hải là “ao nhà” của họ, đừng ai tính xía vô (cũng như người Mỹ vẫn coi
Tây Bán cầu là sân sau của mình). Quan niệm Châu Mỹ là chuyện riêng của nước Mỹ
sẽ được người Trung Hoa áp dụng ở miền Ðông Á Châu, đặc biệt là trong vùng biển
phía Nam nơi nhiều quốc gia đang tranh chấp các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Mặt khác, giới quân sự
Trung Quốc cũng muốn dằn mặt nhóm cầm quyền cộng sản Việt Nam, cho họ biết rằng
người Trung Quốc không nể nang gì Mỹ cả (bị phun nước nhưng vẫn cởi trần xông
tới). Do đó, họ nhắn bảo cộng sản Việt Nam hãy ngưng lén lút bàn chuyện “dan
díu” với Mỹ qua cuộc gặp gỡ đô đốc Robert Willard. Báo
chí ở Việt Nam, do đảng cộng sản kiểm soát, đã loan tin đô đốc Willard thảo luận
hợp tác trong nhiều lãnh vực, trong đó có cả những vấn đề an ninh và quốc phòng
ở Biển Ðông.
Ðiều đáng tiếc là trước
một biến cố xẩy ra trong vùng biển của nước mình, thái độ của chính quyền cộng
sản Việt Nam quá rụt rè, có thể nói là nhu nhược. Khi được hỏi về hành động của
thủ tướng Mã Lai Á bay tới thăm đảo Ðá Hoa Lau trong quần đảo Trường Sa, phát
ngôn viên Bộ Ngoại Giao Hà Nội chỉ nhắc lại những quy tắc đại cương như việc tôn
trọng chủ quyền các nước theo luật biển và Công ước 1982, để “không làm tình
thình thêm phức tạp.”
Ðáng lẽ ra, nhân những
biến cố xẩy ra giữa tàu Hải quân Mỹ và Trung Quốc, người cầm quyền ở Việt Nam
phải lợi dụng cơ hội này xác nhận lại chủ quyền của nước mình trên vùng biển xẩy
ra những vụ rắc rối đó.
Vì vụ tầu Impeccable
cũng xẩy ra trong “vùng kinh tế trên biển, EZZ” của Việt Nam, nằm trong khoảng
200 hải lý cách bờ biển nước ta ở Hoàng Sa. Trong khi Trung Quốc nhân cơ hội này
xác định vùng EZZ của họ, Việt Nam không nên để lỡ cơ hội mà không nhắc lại
Hoàng Sa là một quần đảo thuộc nước Việt mặc dù đã bị Trung Quốc đánh chiếm từ
năm 1974.
Khi hai quốc gia có
những tranh chấp về lãnh thổ và lãnh hải, bổn phận của chính quyền là luôn luôn
tìm cơ hội nhắc lại chủ quyền bất khả xâm phạm của mình trên những vùng tranh
chấp đó. Nhất là khi Hải quân Trung Quốc cố ý phô bầy cho cả thế giới biết là
vùng Biển Ðông nước ta là “ao nhà” của họ, không cho ai xía vào, thì bất cứ
chính quyền Việt Nam nào cũng phải tìm cách phản bác bản thông điệp ngấm ngầm
như vậy. Thái độ im lặng của đảng cộng sản Việt Nam cho thấy họ vẫn theo một
đường lối ngoại giao tránh né nếu không phải là sợ sệt dối với nước cộng sản đàn
anh phương Bắc.
Trong một bài tham luận
về vấn đề tranh chấp các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mới được phổ biến trên
mạng lưới của các cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh Việt Nam Cộng Hòa, kỹ sư
Trần Văn Khởi đã lên án đảng cộng sản Việt Nam là nhu nhược, nếu không nói là
hèn nhát, khi tránh né nêu lên vấn đề chủ quyền này.
Một thái độ nhu nhược lộ
rõ nhất là suốt hai chục năm qua đảng cộng sản Việt Nam đã không công khai lên
tiếng để làm cho minh bạch vụ bức thư của Phạm Văn Ðồng gửi Chu Ân Lai năm 1958.
Như đã trình bày trong mục này nhiều lần, bất cứ chính
quyền Việt Nam nào, bây giờ và trong tương lai, đều có thể giải thích bức thư
“oan nghiệt” đó theo cách khác với Bắc Kinh, để bênh vực quyền lợi đất nước, bác
bỏ cách giải thích của chính quyền Trung Quốc.
Như chúng ta đã biết,
vào Tháng Chín năm 1958, chính phủ Trung Quốc đưa ra bản tuyên bố về hải phận 12
hải lý của họ. Tuy bản tuyên bố này nhắm vào việc xác định chủ quyền của Trung
Quốc trên các đảo Ðài Loan, Bành Hồ, Kim Môn, Mã Tổ, vân vân, nhưng trong đoạn
số 4 có nhắc tới các quần đảo Ðông Sa, Tây Sa (tức Hoàng Sa của nước ta), Nam Sa
(tức Trường Sa). Lúc đó, vì đang phải xin Trung Quốc giúp xâm chiếm miền Nam
Việt Nam, Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đã dại dột cho ông Phạm Văn Ðồng viết lá
thư công khai tán thành bản tuyên bố của chính phủ Trung Quốc. Từ đó tới nay,
Bắc Kinh đã vin vào lá thư đó để coi là cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn chấp nhận
chủ quyền của họ trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhưng, như kỹ sư Trần
Văn Khởi giải thích, người Việt Nam có thể giải thích cách khác, nói rằng lá thư
Phạm Văn Ðồng chỉ công nhận quan điểm lãnh hải 12 cây số đối với các đảo đã
thuộc Trung Quốc mà thôi, chứ không bàn đến vấn đề chủ quyền trên các đảo ở
Hoàng Sa và Trường Sa. Một điều quan trọng hơn nữa là kỹ sư Trần Văn Khởi cho
biết năm 1979, đảng cộng sản Việt Nam cũng đã nêu lên vấn đề này một lần rồi.
Như chúng ta đều biết,
Tháng Hai năm 1979, quân Trung Quốc xâm chiếm và tàn phá các tỉnh Cao Bằng và
Lạng Sơn của nước ta rồi rút về. Ngày 30 Tháng Bẩy năm đó, chính phủ Bắc Kinh đã
đưa ra một bản tuyên bố nói về chủ quyền của họ trên các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, dựa trên lá thư của Phạm Văn Ðồng. Nhưng một tuần sau, Bộ Ngoại Giao
Hà Nội đã đưa ra những lời tuyên bố phản bác ý kiến đó.
Nhưng từ khi cộng sản
Việt Nam chịu quay đầu khuất phục trước cộng sản Trung Quốc trở lại, không bao
giờ họ lên tiếng nhắc lại những lời phản bác trên. Tại sao họ lại chọn thái độ
im lặng nhu nhược như vậy? Ngay cả trong cuộc họp của Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận
Tổ Quốc với quân chủng hải quân Việt Nam gần đây, đã được báo Lao Ðộng ở Hà Nội
loan tin, mọi người cũng chỉ nói chung chung về chủ quyền trên các quần đảo và
khuyến cáo nên giáo dục thanh thiếu niên Việt Nam về chủ quyền của Việt Nam trên
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (một đề nghị của thi sĩ Bùi Minh Quốc) nhưng
tất cả vẫn hoàn toàn im lặng không nhắc tới lời giải thích chính thức năm 1979
về lá thư của Phạm Văn Ðồng!
Chỉ có thể nghĩ rằng các
lãnh tụ cộng sản Việt Nam đang phải quỵ lụy cộng sản Trung Quốc vì họ đã “há
miệng mắc quai.” Giới cầm đầu đảng Cộng Sản Việt Nam bị ràng buộc trong nhiều
vấn đề khác, mà vì quyền lợi của đảng, họ phải im lặng. Họ tự bào chữa là đường
lối ngoại giao của họ là bên ngoài tỏ vẻ thân thiện, bên trong vận động ngầm có
thể hữu hiệu hơn. Nhưng lối tự biện hộ đó chỉ để che giấu một thái độ khuất phục
hèn nhát.
Bởi vì khi hai quốc gia
có những tranh chấp về lãnh thổ hoặc lãnh hải thì nước nhỏ không thể nào tạo sức
ép trên nước lớn nếu chỉ vận động ngầm bên trong. Làm như vậy là mang tính cách
xin xỏ, năn nỉ, giống như chịu phận đàn em cúi đầu mong đàn anh thông cảm.
Chính quyền nước lớn họ không bao giờ hy sinh quyền
lợi của nước họ để thỏa mãn một thứ tình “đồng chí anh em” mà ai cũng biết là
giả dối.
Muốn ép chính quyền một
nước lớn phải chú ý và tôn trọng quyền lợi của dân tộc mình, thì nước nhỏ phải
trông cậy vào sức ép quốc tế. Phải đặt vấn đề quyền lợi của nước mình vào trong
khung cảnh quyền lợi chung của tất cả các nước khác, nhất là những nước lớn khác.
Phải chứng tỏ đó là một vấn đề quốc tế, cho nên phải làm lớn câu chuyện lên. Ông
thủ tướng Mã Lai Á đã làm công việc đó khi ông bay tới thăm những hòn đảo trong
quần đảo Trường Sa mà nước ông coi là của họ.
Cho nên, nhân dịp xẩy ra
vụ đụng độ giữa hải quân Trung Quốc và Mỹ ở vùng Biển Ðông, chính quyền Việt Nam
cần phải lên tiếng để xác nhận vùng biển này nằm trong vùng khai thác kinh tế
EEZ của Việt Nam. Ðó là một dịp để xác nhận lại chủ quyền của nước ta trên các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đặc biệt là Hoàng Sa, nơi mà năm 1974 các chiến
sĩ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã đổ máu bảo vệ tổ quốc.
Nếu đảng cộng sản Việt
Nam tiếp tục giữ im lặng thì mọi người dân Việt Nam phải lên tiếng, và yêu cầu
họ từ bỏ thái độ hèn nhát đó. Mọi người Việt Nam đều có quyền lên tiếng bảo vệ
tổ quốc, không thể phó mặc cho một nhóm lãnh tụ cộng sản tự tung tự tác mãi
được.
|