Ngày
27.2.2009, bà Katia Bennett, Tham Tá Chính Trị tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ
tại Sài Gòn đã đến vấn an và trao đổi về tình hình Việt Nam và Phật
Giáo với Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Tăng Thống GHPGVNTN, tại Thanh Minh
Thiền Viện ở Sài Gòn. Sau đó, bà Ỷ Lan, đại diện đài Á Châu Tự Do (RFA)
đã phỏng vấn Hoà Thượng về cuộc gặp gỡ này. Cuộc phỏng vấn đã được đài
RFA phát đi trong cùng ngày.
Hòa Thượng Quảng Độ cho biết ngài đã nói với bà Katia Bennett hai điều
quan trọng: Điều thứ nhất là không hài lòng với lời tuyên bố vừa qua
của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton tại Bắc Kinh. Lời tuyên bố này
đã xem nhẹ vấn đề nhân quyền trong quan hệ ngoại giao Trung - Mỹ. Điều
thứ hai là quá trình thất bại của nhà cầm quyền Hà Nội trong 6 bước tấn
công nhằm tiêu diệt GHPGVNTN qua các năm 1977, 2000, 2005, 2006, 2007
và 2008. Hoà Thượng nhấn mạnh rằng Hà Nội đã sử dụng lá bài Sư Ông Nhất
Hạnh và hai năm qua dùng chiêu bài “Về Nguồn” của nhóm các Sư ở Úc
Châu, Âu Châu, Canada và Hoa Kỳ nhưng tất cả đều thất bại.
Điều đáng chú ý là qua cuộc nói chuyện với bà Katia Bennett, Hoà Thượng
đã công khai nói lên mặt trái của lá bài dân chủ và nhân quyền mà Hoa
Kỳ thường đưa cao. Hy vọng tiếng nói của Hoà Thượng sẽ làm cho nhiều
người Việt chống cộng ở hải ngoại nhìn rõ vấn đề hơn.
Mặc dầu một số website đã đăng toàn văn bài phỏng vấn nói trên, trước
khi góp một vài ý kiến vào những vấn đề mà Hoà Thượng Quảng Độ đã nêu
ra, chúng tôi xin mời độc giả đọc kỹ lại một lần nữa phần Hoà Thượng
Quảng Độ chỉ trích Hoa Kỳ về vấn đề dân chủ và nhân quyền.
TRÍCH BÀI PHỎNG VẤN
Ỷ Lan: Kính chào Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ. Được
biết bà Katia Bennett, Tham tán Chính trị tại tòa Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ
vừa đến vấn an Hòa thượng tại Thanh Minh Thiền viện, Sài Gòn. Kính xin
Hòa thượng hoan hỉ cho thính giả được biết sự kiện này và Hòa thượng đã
nói gì khi gặp gỡ?
HT Quảng Độ: Chào cô Ỷ Lan, lúc 9 giờ ngày hôm qua tức ngày
26.2.2009, bà Katia Bennett, Tham tán Chính trị tại tòa Tổng Lãnh sự
Hoa Kỳ ở Sài Gòn có đến thăm tôi ở Thanh Minh Thiền viện. Sau khi chào
hỏi và trao đổi mấy câu có tính cách xã giao thường lệ, tôi bắt đầu
ngay vào vấn đề chính mà tôi muốn trình bày trong cuộc gặp gỡ đúng lúc
này.
Đó là vấn đề lời tuyên bố của bà Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton
tại Bắc Kinh ngày 21.2.2009, rằng Hoa Kỳ sẽ không để vấn đề Dân chủ,
Nhân quyền gây ảnh hưởng và cản trở bước phát triển trong mối quan hệ
song phương giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Tôi nói với bà Bennett rằng, khi tôi nghe lời tuyên bố ấy tôi có cảm
tưởng như người Việt Nam thường nói, bị dội gáo nước lạnh lên đầu. Như
vậy tôi hiểu từ nay Hoa Kỳ sẽ coi vấn đề Dân chủ, Nhân quyền là thứ yếu
trong chính sách ngoại giao, và vấn đề kinh tế, thương mại tức vấn đề
làm ăn được đặt lên hàng đầu. Điều chúng tôi quan ngại là lời tuyên bố
trên đây của bà Ngoại Trưởng Hillary Clinton không những rất bất lợi
đối với những nhà đang tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ ở Trung Quốc
mà còn rất tai hại cho những người đang cố gắng hết sức mình bất chấp
khó khăn, tù ngục, đoạ đày, ngay cả mạng sống, đấu tranh để vứt bỏ gông
cùm xiềng xích của các chế độ độc tài toàn trị, độc tài quân phiệt ở
Việt Nam, Tây Tạng và Miến Điện. Bởi vì bản chất các chế độ độc tài ở
đâu cũng giống nhau. Rồi đây các chính quyền phi pháp, tàn bạo ở các
nước nói trên sẽ thẳng tay đàn áp, bắt bớ, bỏ tù những người đấu tranh
đòi quyền sống, quyền làm người, tự do, dân chủ và công bằng xã hội. Vì
chẳng còn chướng ngại nào trên con đường áp bức của họ.
Ỷ Lan: Bạch Hòa Thượng, bà Katia Benneth phản ứng ra sao trước lời phê bình của Hòa thượng?
HT Quảng Độ: Sau đó thì bà Bennet cũng có cố gắng biện minh. Bà
nói rằng là ở Bắc Kinh bà ấy cũng có nói như thế, tuyên bố như thế.
Nhưng mà trong các cuộc họp riêng tư, các cuộc phỏng vấn, bà vẫn cứ đặt
vấn đề dân chủ, nhân quyền hàng đầu. Đó là chính sách của Hoa Kỳ, chính
sách truyền thống của Hoa Kỳ. Và nhất là bà đưa bản
Tường trình về Nhân quyền trên toàn thế giới,
trong ấy có Việt Nam của Bộ Ngoại giao mới phát hành hôm qua hôm kia gì
đó. Bà có nói để chứng minh rằng trước sau như một, Hoa Kỳ vẫn lấy vấn
đề dân chủ và nhân quyền làm căn bản.
Trong chính sách ngoại giao thì tôi cũng hiểu bà cố nói để biện minh
vậy thôi. Chứ còn không thể nào làm hơn. Nhưng tôi có nói với bà, tôi
thưa thật tôi thấy vấn đề ấy nó hơi quan trọng liên quan đến người Việt
Nam chúng tôi, cho nên tôi nói thế thôi. Chứ thực ra tôi cũng ý thức
rằng, vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự người Việt Nam chúng tôi phải lo
lấy. Còn sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, của Liên Âu, bất cứ gì ở bên ngoài, đó
chỉ là phụ thôi. Theo nhà Phật cái nhân là chính, cái duyên là phụ. Tuy
nhiên cái phụ cần phải có thì cái chính, cái nhân mới phát triển được.
Chẳng hạn hạt thóc mà vứt xuống ruộng thì cũng phải nhờ gió, nhờ nước,
nhờ đất tốt thì nó phát triển. Thì chúng tôi cũng vậy, nhân quyền thì
chúng tôi tranh đấu, đòi hỏi. Nhưng dưới chế độ độc tài toàn trị thế
này rất là khó khăn. Nếu không có sự hỗ trợ truyền thông bên ngoài thì
không ai biết đến. Do đó chúng tôi hy vọng ở Hoa Kỳ nói riêng, và các
nước dân chủ tiên tiến nói chung trên thế giới, nhất là Liên Âu, hỗ trợ
chúng tôi. Tôi có nói an ủi bà như thế, chứ bà cũng tỏ ra buồn, vì bà
Ngoại Trưởng đã phát biểu rồi. Người Việt Nam thì nói sẩy chân còn đỡ
được, sẩy miệng khó đỡ lắm! Cổ nhân Việt Nam hay là Trung Quốc ngày xưa
cũng thế, trước khi nói phải uốn lưỡi ba lần mới nói là vì thế.
TUYÊN BỐ CỦA BÀ HILLARY CLINTON
Trước khi lên máy bay từ Seoul đi Bắc Kinh hôm 20.2.2009, Bà Hillary Clinton nói:
''Các chính quyền Mỹ liên tiếp cũng như các chính phủ Trung Quốc đều bị
vấn đề nhân quyền khuấy động. Chúng ta cần phải tiếp tục gây áp lực.
Thế nhưng không nên để điều này chi phối các cuộc thảo luận về cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới, về biến đổi khí hậu và về an ninh".
Đài RFI của Pháp ngày 23.2.2009 có phổ biến một bài dưới đầu đề “Ưu
tiên cho kinh tế, ngoại trưởng Mỹ quên hồ sơ nhân quyền”, tường thuật
lại một bài báo trên tờ
Libération
của Pháp dưới hàng tựa «Bà Clinton tán tỉnh Bắc Kinh», nhấn mạnh rằng
Washington mải lo cho món nợ của mình đã «quên mất» hồ sơ nhân quyền.
Tờ
Le Figaro cũng nói đến một bà Hallary Clinton ra sức quyến
rũ Trung Quốc và đã gạt qua một bên vấn đề nhân quyền để có thể đẩy
mạnh, một cách hữu hiệu hơn, sự hợp tác kinh tế giữa hai quốc gia.
Trong bài “Hoa Kỳ chỉ trích TQ về nhân quyền” phổ biến ngày 26.2.2009,
đài BBC tường thuật rằng trong chuyến thăm của bà Clinton tới Trung
Quốc, một số nhân vật hoạt động cho nhân quyền đã chỉ trích bà khi
người đứng đầu ngành ngoại giao Mỹ không nêu “vấn đề nhân quyền” với
giới chức Trung Quốc.
Tuy nhiên nữ Bộ Trưởng Ngoại Giao Mỹ nói rằng bà có các buổi trao đổi ý kiến thẳng thắn với người đương nhiệm phía Trung Quốc.
Báo cáo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ
nói năm 2008 giới chức Trung Quốc đã thực hiện các vụ “giết người không
nêu lý do, tra tấn, ép cung tù nhân, và dùng lao động cưỡng bức”. Đàn
áp về văn hóa và tôn giáo trở nên tồi tệ hơn, xảy ra chủ yếu tại vùng
Tân Cương có đông người Hồi giáo sinh sống. Và vùng Tây Tạng.
Bài tường thuật nói rằng Hoa Kỳ cần tiếp tục chính sách ngoại giao mạnh
mẽ, vừa lên tiếng trước các vụ vi phạm nhân quyền, vừa yêu cầu hành
động.
ĐỐI DIỆN VỚI SỰ THẬT
Vấn đề liên hệ giữa GHPGVNTN và Đảng CSVN và sau đó “cuộc chiến” kéo
dài giữa hai bên, chúng tôi đã viết khá nhiều và đầy đủ. Hôm nay chúng
tôi chỉ đề cập đến chính sách của Hoa Kỳ đối với vấn đề dân chủ và nhân
quyền.
Thật ra, việc tố cáo chính sách của Hoa Kỳ về dân chủ và nhân quyền
không phải là một chuyện mới mẻ gì. Trong gần 20 năm qua, kể từ khi
chiến tranh lạnh chấm dứt và Hoa Kỳ bắt đầu áp dụng chiến thuật “diễn
biến hoà bình”, các nhà tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền, các nhà
phân tích, các dân biểu và nghị sĩ Hoa Kỳ... đã nhiều lần nêu lên vấn
đề mà Hoà Thượng Quảng Độ đã đề cập đến.
Chúng tôi cũng đã nhiều lần nói rõ về vấn đề này, nhất là trong các bài
“Đừng quên Anh Hai”, “Lại chuyện Anh Hai”, “Anh Hai Cán Bộ”, v.v. Nhưng
đa số người Việt chống cộng ở hải ngoại vẫn tưởng rằng Hoa Kỳ đang ở
trong thời kỳ chiến tranh lạnh, sẽ dùng dân chủ và nhân quyền để đánh
sập chế độ cộng sản Việt Nam hiện tại, lời phê phán của Hoà Thượng
Quảng Độ một lần nữa đòi hỏi chúng ta phải đối diện với sự thật. Đây là
một vấn đề không đơn giản.
1.- Sự thật phũ phàng
Chúng ta nhớ lại, sau khi Thứ Trưởng Ngoại Giao Mỹ Eric G. John thăm
Hòa Thượng Thích Quảng Độ tại Việt Nam hôm 12.4.2007, thông tín viên
Matt Steinglass của đài VOA đã tường thuật lại lời tuyên bố của ông ta
như sau:
“Tôi không bị hạn chế dưới bất cứ hình thức nào khi đi gặp ông Thích
Quảng Độ. Cơ bản là chúng tôi đã lái xe thẳng vào khuôn viên thiền
viện”.
“Các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đồng ý rằng tự do tôn giáo ở Việt Nam không
hoàn chỉnh. Theo luật, mọi tổ chức tôn giáo phải đăng ký với nhà nước.
Nhưng đối với đa số người Việt, Việt Nam đang được tự do tôn giáo nhiều
hơn...”
Ông nói tiếp: "Chúng ta đã thấy các biến chuyển đáng kể. Tôi nghĩ rằng là có tiến bộ về tự do tôn giáo ở Việt Nam".
Ông cho biết: “Hoa Kỳ sẽ tiếp tục khuyến cáo Việt Nam cho phép có tự do
tôn giáo nhiều hơn. Nhưng, Hoa Kỳ sẽ không quan tâm đến lời kêu gọi của
Hòa Thượng Thích Quảng Độ đề nghị dùng thương mại như một cái cần để
thúc đẩy Cộng sản Việt Nam cởi mở hơn về các vấn đề nhân quyền”.
Sau đó, thông tín viên Matt Steinglass còn đá giò lái GHPGVNTN: “Giáo
hội được thành lập ở Nam Việt Nam vào năm 1964. Khi đó, giáo hội phản
đối Hoa Kỳ can dự vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam và đã tổ chức nhiều
cuộc biểu tình lớn chống Mỹ”.
Tuy nhiên, bảo rằng Hoa Kỳ quan tâm đến vấn đề thương mại hơn vấn đề
dân chủ và nhân quyền cũng không hoàn toàn đúng vì hai vấn đề thường đi
song song với nhau. Thỉnh thoảng Hoa Kỳ đã dùng chiêu bài dân chủ và
nhân quyền để làm áp lực về thương mại đối với nước đối tác, nhưng Hoa
Kỳ cũng chủ trương xây dựng dần dần dân chủ và nhân quyền ở quốc gia
đối tác để hổ trợ cho việc phát triển kinh doanh.
2.- Chấp nhận “mô thức xám xập”
Tưởng cần nhắc lại: Bà cựu Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Condoleeza Rice đã từng
thúc giục cả Miền Điện lẫn Bắc Hàn noi gương Việt Nam (The American
Secretary of State, Condoleezza Rice urged Burma and North Korea to
follow the example set by Vietnam). Hôm 27.11.2007, ông Ibrahim
Gambari, Đại Sứ Đặc Mệnh Toàn Quyền của Liên Hiệp Quốc lại thúc giục
Việt Nam tiếp tay trong các nỗ lực quốc tế nhằm giải quyết cuộc khủng
hoảng chính trị tại Miến Điện! Sau đó, trong cuộc viếng thăm Hà Nội
ngày 3.3.2008, Trợ Lý Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Christopher Hill lại tuyên bố
Bắc Hàn và nhiều nước khác có thể học nhiều bài học quý giá từ Việt
Nam. Ông nói:
"Tôi không rõ Bắc Triều Tiên có hỏi kinh nghiệm của Việt Nam hay không,
nhất là kinh nghiệm phát triển kinh tế. Thế nhưng tôi rất mong họ hỏi
câu hỏi đó vì trong 5 năm gần đây Việt Nam đã có những tiến triển thần
kỳ."
Như chúng tôi đã nói, sở dĩ các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ thúc giục Miến Điện
và Bắc Hàn nói gương (example) của Việt Nam vì theo họ Việt Nam đã hội
đủ ba yếu tố sau đây để có thể giao thương bền vững: (1) đoạn tuyệt với
quá khứ, (2) ổn định tình hình và (3) phát triển kinh tế.
Khi muốn lập quan hệ thương mại với bất cứ nước nào, Hoa Kỳ thường làm
áp lực đòi nước đó phải nới rộng dân chủ và nhân quyền đến mức nào đó
để việc giao thương có thể phát triển được.
Các nhà phân tích cho rằng trong một nước chậm tiến, trình độ dân trí
còn thấp, một chế độ độc tài theo “mô thức xám xập”, tức 30% dân chủ và
70% độc tài, chế độc đó có thể tồn tại được. Trái lại, nếu tiến tới “mô
thức ứng xập”, tức 50% độc tài và 50% dân chủ, tình trạng bất ồn rất dễ
xẩy ra và chế độ đó sớm muộn gì rồi cũng sụp đổ. Cộng Sản Trung Quốc và
Việt Nam biết rất rõ điều đó, nên để bảo vệ chế độ, họ không bao giờ
cho phép vượt qua “mô thức xám xập”, dù bị áp lực.
Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy nhà cầm quyền CSVN tìm mọi cách để
phân hoá hay ngăn chận không cho GHPGVNTH hoạt động ở trong nước vì sợ
giáo hội này sẽ gây bất ổn cho chế độ như dưới thời VNCH.
Hôm 9.3.2009, trong bài diễn văn đọc tại phiên họp của Quốc Hội Nhân
Dân Trung Quốc, ông Ngô Bang Quốc, Chủ Tịch Quốc Hội, tuyên bố:
"Chúng ta phải học hỏi từ thành công của tất cả các nền văn hóa. Tuy
nhiên, chúng ta sẽ không bao giờ đơn giản chỉ đi sao chép hệ thống của
các nước phương Tây hay đưa ra một hệ thống đa đảng luân phiên nắm
quyền".
Chắc chắn các nhà đầu tư sẽ không bao giờ đầu tư vào một quốc gia sáng
đình công, chiều biểu tình, ngày hôm sau đảo chánh... như tình trạng
của miền Nam Việt Nam sau năm 1963. Các nhà kinh tế nói rằng đầu tư vào
một tình trạng như thế chẳng khác chi “chùm hai chân nhảy vào bóng
tối”.
Trong thực tế rõ ràng là Hoa Kỳ đã đồng ý “mô thức xám xập” có thể giúp
cho việc phát triển kinh doanh ổn định, nên đã biện hộ cho cả Đảng Cộng
Sản Trung Quốc lẫn Việt Nam, và kêu gọi Bắc Hàn và Miến Điện noi gương
Việt Nam.
Cũng vì chấp nhận “mô thức xám xập”, các cường quốc đang đổ khá nhiều
tiền của vào Việt Nam với hy vọng biến Việt Nam thành một đầu cầu phát
triển kinh doanh ở Đông Nam Á. Họ tiếp tục tăng viện trợ ODA (Official
Development Assistance), tức viện trợ phát triển cho Việt Nam, và đẩy
mạnh các chương trình xây dựng hạ tầng.
Vốn ODA dành cho Việt Nam liên tục tăng lên, từ 4,45 tỉ USD cam kết cho
năm 2007 lên 5,426 tỉ USD cho 2008. Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (ADB)
đứng đầu danh sách các tổ chức tài trợ cho Việt Nam, với 1,35 tỉ USD,
chiếm 25% tổng số cam kết năm 2008. Chiều 5.12.2008 mức cam kết ODA
được nhóm các nhà tài trợ quốc tế quyết định dành cho Việt Nam trong
năm 2009 là 5,014 tỉ USD, thấp hơn mức cam kết năm 2008 là 8%, vì tình
hình kinh tế thế giới đang suy thoái, nhưng như thế cũng là quá nhiều.
Với Nhật Bản, mặc đầu có vụ PCI, Nhật đã cam kết dành 83 tỉ 200 triệu
Yen, tương đương với 900 triệu USD, cho chương trình trợ giúp Việt Nam
phát triển. Sự kiện này đã làm Nhật trở thành nước cấp viện trợ nhiều
nhất cho Việt Nam.
Hoa Kỳ và các cường quốc cũng đang thúc đẩy và giúp Việt Nam hoàn tất
đường xe lửa cao tốc xuyên Việt và xuyên Á để có thể mở rộng kinh
doanh. Chỉ riêng tuyến đường sắt cao tốc nối Hà Nội với Sài Gòn dài
1600km đã tốn đến 40 tỉ USD, tương đương GDP của Việt Nam trong một
năm.
Phương án thiết kế đoạn đường sắt từ ga Sài Gòn đến Lộc Ninh, biên giới
Cambodia, dài 140 km trong tuyến đường sắt xuyên Á với phí tổn được dự
trù là 438 triệu USD. Tuyến đường sắt xuyên Á này dài 5.500km, bắt đầu
từ Côn Minh, Trung Quốc, chạy qua Việt Nam, Cam Bốt, Lào, Miến Điện,
Thái Lan, Mã Lai Á và ga cuối cùng ở Singapore. Tuyến đường này do Mã
Lai Á khởi xướng vào năm 1995 và dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2015.
Nhìn những công trình mà Hoa Kỳ và các cường quốc đang thực hiện ở Việt
Nam, chúng ta có thể tin rằng họ đang tính chuyện làm ăn lâu dài với
Việt Nam. Nhật Bổn đã viện trợ cho Việt Nam nhiều nhất nhằm ưu tiên
chiếm lãnh thị trường tại đây trong tương lai.
DÂN CHỦ PHỤC VỤ KINH DOANH
Khi tạm thời chấp nhận một “mô thức xám xập” như đã nói trên, không có
nghĩa là Hoa Kỳ và các cường quốc muốn duy trì mãi tình trạng đó. Họ sẽ
dùng “diễn biến hoà bình” để làm thăng tiến chế độ, giúp cho việc kinh
doanh ngày càng mở rộng. Muốn thăng tiến chế độ, công việc đầu tiên là
nâng cao dần cuộc sống và dân trí của người dân trong nước lên. Nếu mức
sống và dân trí như hiện nay còn được tiếp tục duy trì, rất khó thoát
ra khỏi “mô thức xám xập”.
Trong vụ nhà cầm quyền Việt Nam định khai thác mỏ bauxite ở Cao Nguyên,
đài BBC đã phỏng vấn thầy giáo Y Long, một thầy giáo dạy cấp ba duy
nhất người M'Nong ở tỉnh Đắk Nông, nơi dự án bauxite sẽ được thực hiện.
Theo thầy Y Long người M'Nong chiếm gần 40% dân số Đắk Nông (tổng số
dân trong tỉnh khoảng 500.000 người) và sống trên 90% diện tích đất đai
của tỉnh. Người M'Nong không mặn mà lắm đối với những cái lợi do việc
khai thác bauxite sẽ đem lại. Hiện nay việc đào tạo kỹ sư rồi đào tạo
nhân lực chuẩn bị cho việc khai thác quặng bauxite thì người địa phương
bản địa không hề biết gì hết. Người địa phương cũng khó có thể cạnh
tranh trong việc kinh doanh thương mại phục vụ cho công trình khai thác
vì họ quá nghèo và kinh tế thị trường vẫn còn là điều xa lạ đối với họ.
Có hộ thu nhập hàng tháng chỉ tính bằng vài chục đô, có hộ không đủ gạo
để ăn. Với họ, tốt nhất là không nên làm.
Tại Hà Nội, người ta mới khám phá ra xứ Quèn Gianh - Gò Mu thuộc huyện
Mỹ Đức, cách trung tâm Hà Nội chỉ hơn 50 km về phía tây nam, chỉ có 2
học sinh lớp 6 là cao nhất, 3 học sinh lớp 5, 4 học sinh lớp 3 và lớp
1!
Với mức sống và trình độ dân trí như thế, dân chủ và nhân quyền đối với họ chẳng có một ý nghĩa gì cả.
Các cường quốc tin rằng khi cuộc sống và dân trí của người dân ngày
càng được nâng cao, nền dân chủ sẽ được phát triển từ từ trong ổn định,
và sự kiện này sẽ giúp cho việc phát triển kinh doanh của họ ngày càng
tốt đẹp hơn.
Liên Hiệp Quốc và các cường quốc đã thiết lập kế hoạch kiến tạo “xã hội
dân sự” ở Việt Nam qua từng giai đoạn. Họ tính cả việc sử dụng các đoàn
thể quần chúng do Đảng CSVN lập ra.
Biết được điều này, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy nhân dịp lễ
Vesak Nhà Nước được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 5 năm 2008, ngày
28.5.2008, ông Judd Birdsall – Văn Phòng Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế - Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ, đã tới thăm và làm việc tại Văn Phòng I Trung Ương
GHPGVN, tức Giáo Hội Phật Giáo Nhà Nước. Tại cuộc gặp gỡ, ông Judd
Birdsall đã bày tỏ sự cảm kích và ngưỡng mộ đối với GHPGVN qua việc tổ
chức Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc 2008 trong thời gian qua. Ông mong
muốn GHPGVN ngày càng phát triển hưng thịnh, giúp xã hội được thịnh
vượng và hạnh phúc.
Mới nhìn qua, chúng ta cho rằng Hoa Kỳ đang chơi trò bắt cá hai tay,
nhưng nhìn vào chương trình phát triển “xã hội dân sự” ở Việt Nam,
chúng ta thấy Hoa Kỳ và các cường quốc đang thực hiện chiến dịch “diễn
biến hoà bình”.
Đại Sứ Hoa Kỳ Michael Michalak đã từng nói: “Hai mươi năm sau, chúng ta
sẽ không nói Mỹ đã vào Việt Nam để kiếm tiền, mà chúng ta sẽ nói rằng
hơn 75% thành phần Nội Các Việt Nam là những người đã du học Mỹ". Còn
ông Aloisi, Phó Đại Sứ Hoa Kỳ tiên đoán: “Việt Nam có thể ở trong lộ
trình của chế độ dân chủ đa đảng trong 15 hay 20 năm tới”!
Các nhà phân tích cho rằng sự ước tính của ông Aloisi hơi quá lạc quan.
Trước đây, Đại Hàn và Đài Loan là hai nước chống cộng hàng đầu ở Á
Châu, luôn sát cánh với VNCH. Nhưng khi Hoa Kỳ từ bỏ chiến tranh lạnh
và thay thế bằng chiến dịch “diễn biến hoà bình”, cả hai nước này đã đi
theo, và có khi còn qua mặt Hoa Kỳ, nhờ vậy hai nước này đã biến thành
hai con rồng Á Châu.
Các nhà phân tích lưu ý rằng cái gạch nối giữa phát triển kinh tế và
dân chủ không phải luôn luôn là điều tất yếu. Nhiều chế độ độc tài trên
cho thấy rằng họ có thể làm cho đất nước phát triển kinh tế nhưng vẫn
dìm được dân chủ. Trường hợp của Trung Quốc là một thí dụ điển hình.
Nhưng các chuyên gia Mỹ tin tưởng rằng thế hệ tới do họ đào tạo sẽ làm
thay đổi.
VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG
Trong bất cứ chế độ nào, kể cả tại Hoa Kỳ, lúc nào cũng cần có những ý
kiến khác biệt được đưa ra để thúc đẩy chế độ phải xét lại các chủ
trương và hành động của mình, nhận ra những sai lầm và sửa chữa. Khi
tiếng nói ở trong nước bị giới hạn, tiếng nói từ bên ngoài rất cần
thiết.
Nhưng điều quan trọng là phải nghiên cứu tường tận những vấn đề muốn
chỉ trích hay góp ý để có thể điểm trúng “huyệt” mới có tác dụng. Nếu
chỉ đánh khơi khơi, đánh dựa trên hư cấu, lập luận một chiều hay chỉ
đánh để thỏa mãn lòng thù hận..., chắc chắn sẽ không có tác dụng gì.
Hiện nay có ba cơ quan truyền thông Việt ngữ quốc tế đã đóng góp rất
nhiều vào việc làm thay đổi lối suy tư và hành động của người dân trong
nước, kể cả các đảng viên và viên chức chính quyền, đó là đài BBC, đài
RFI và đài RFA. Những cơ quan này đã dùng những tin tức chính xác và
những quan điểm khác nhau của những người trong cuộc, các chuyên gia...
để giúp người dân cũng như chính quyền trong nước suy nghĩ về những gì
đã hay đang xẩy ra. Chúng tôi tin rằng đây là một phương cách tốt để
nâng cao dân trí và đổi mới đất nước.