Ngọc Khánh
Ngày 14/3 vừa qua, Trung Quốc đã đưa tầu ngư nghiệp lớn nhất tới biển
Đông. Con tầu vốn được nâng cấp từ tầu chiến này có tốc độ 20 dặm và
trọng tải trên 4.000 tấn. Hành động này của Trung Quốc nhằm trả đũa
lại việc đưa tầu chiến tới biển Đông của Mỹ sau vụ "chạm trán" không
lấy gì làm hữu nghị giữa tầu thăm dò đại dương Impeccable của Mỹ với 5
tầu đánh cá Trung Quốc.
Người Tầu vốn "thâm", họ không làm gì mà không nhằm đôi ba mục đích.
Lần này, vừa "nắn gân" tổng thống mới đắc nhiệm Obama (cũng như họ đã
làm với tổng thống Bush khi ông mới vào Nhà Trắng bằng cách ép sát một
máy bay Mỹ buộc máy bay này phải hạ cánh khẩn cấp xuống đảo Hải Nam hồi
năm 2001), họ vừa muốn chứng minh chủ quyền của mình ở biển Đông, phô
diễn sức mạnh, “dằn mặt” mấy nước đang lăm lăm tuyên bố chủ quyền với
một phần hay toàn bộ Hoàng Sa, Trường Sa, đặc biệt là Việt Nam.
Mộng bành trướng xuống phía Nam của Trung Quốc đã có từ lâu. Lịch sử
hào hùng và bi tráng 4000 năm chống ngoại xâm phương Bắc của dân tộc
Việt Nam đã chứng minh điều đó. Giới lãnh đạo Trung Quốc trong thời kì
cận đại này cũng không là một ngoại lệ. Tranh chấp Hoàng Sa và Trường
Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa) được sử sách ghi lại bắt đầu từ
năm 1909, cách đây tròn 100 năm. Trung Quốc khi đó cho đây là hòn đảo
vô chủ và cử một hạm đội nhỏ tới khảo sát.
Sử sách Việt Nam ghi lại, hòn đảo mà Trung Quốc coi là vô chủ này đã
được vua Gia Long chính thức chiếm hữu và cắm cờ từ năm 1816, hai chục
năm sau đó vua Minh Mạng cho xây đền, trồng cây, canh gác và chiếm giữ
quần đảo này cho tới khi người Pháp vào Đông Dương và tiếp tục cai quản.
Năm 1956, lợi dụng lúc người Pháp rời Đông Dương, Việt Nam đang lấn bấn
với việc phân chia Nam – Bắc, Trung Quốc chiếm một phần phía đông quần
đảo Hoàng Sa. Năm 1974, khi Bắc Việt đang tập trung toàn bộ sức lực vào
chiến dịch Tổng tấn công miền Nam, quân đội Việt Nam cộng hòa bị Mỹ bỏ
rơi, Trung Quốc xâm chiếm toàn bộ Hoàng Sa sau một trận hải chiến với
hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Một số đảo thuộc Trường Sa cũng mất dần
trong những năm sau đó.
Điều đáng nói, dã tâm của Trung Quốc là liên tục, chiến thuật của họ
bền bỉ, lấn dần, thông suốt, bài bản, nhất quán từ Mao Trạch Đông, Đặng
Tiểu Bình tới Hồ Cẩm Đào.v.v. Và đặc biệt họ luôn biết lợi dụng cơ hội
trong lúc thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam để “đục nước béo cò”.
Với chính sách nhất quán đó, Trung Quốc đã từ lâu đầu tư cho hải quân,
cho công tác nghiên cứu biển, cho việc tuyên truyền trong cũng như
ngoài nước.v.v.
Sự thực, Trung Quốc gần đây đã hành xử như thể biển Đông là ao nhà của
họ. Từ việc thành lập thành phố cấp huyện Tam Sa quản lý Hoàng Trường
Sa, bắn giết các ngư phủ Việt Nam, “gây sự” với mấy công ty khai thác
dầu khí Anh (PB), Mỹ (ExxonMobil) làm họ phải "bán xới" khỏi biển
Đông, công bố dự án khai thác dầu khí tại thềm lục địa biển Đông lên
tới 30 tỉ USD, tầu chiến, tầu tuần tiễu đi lại nghêng ngang.v.v. cho
thấy sự coi thường của họ với các nước trong khu vực nói chung và Việt
Nam nói riêng. Như vậy, với một chiến thuật rõ ràng, Trung Quốc đã đạt
được những thành công nhất định.
Còn Việt Nam thì sao? Không có một chính sách nhất quán, không đề cao
cảnh giác, hớ hênh, sơ hở về mặt pháp luật. Đáng kể nhất là việc ký
công hàm năm 1958 của Phạm Văn Đồng. Tiếp đó, thái độ lặng thinh của
Việt Nam khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974. Khi đó, có người
còn cho rằng Trung Quốc “anh em” sẽ giữ hộ ta!?
Mấy năm gần đây, Việt Nam luôn tuyên bố chủ quyền với Hoàng - Trường Sa
nhưng thử hỏi, chính quyền đã làm gì để giữ gìn chủ quyền đó? Hay chỉ
đánh võ mồm? Trước những hành động (kể trên) của Trung Quốc, kể cả việc
bắn giết 9 ngư phủ Thanh Hóa, ngoài câu tuyên bố nhạt phèo, lãng xẹt,
lăp đi lặp lại của ông Lê Dũng – người phát ngôn bộ Ngoại Giao - mà
người viết đã thuộc lòng: “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cớ
sở pháp lý để khẳng định...”; chính quyền đã không có hành động mạnh
mẽ, dứt khoát nào.
Chính quyền đã phản ứng yếu ớt nhưng lại đi bịt miệng dân chúng, không cho họ được quyền bày tỏ thái độ, lòng yêu nước của mình.
Hãy nhìn Trung Quốc, mặc dù là nước độc tài cộng sản, nhưng Trung Quốc
đã từng cho phép dân chúng biểu tình chống Mỹ, làm đại sứ quán của Mỹ
tại Bắc Kinh cũng như lãnh sự tại Hồng Kông chìm trong gạch đá khi Mỹ
“lỡ tay” bỏ nhầm bom vào đại sứ Trung Quốc trong lúc oanh tạc Nam Tư,
hay biểu tình chống Nhật khi họ in sách giáo khoa lịch sử không “phù
hợp với quan điểm” của Trung Quốc về thế chiến thứ II…
Chính quyền Việt Nam đã không biết lợi dụng chính “bài” của Trung Quốc
để chơi lại Trung Quốc khi ngăn cản các cuộc biểu tình của sinh viên và
giới trẻ chống Trung Quốc đáng lẽ đã diễn ra vào năm 2007 sau sự kiện
Trung Quốc thành lập thành phố cấp huyện Tam Sa để quản lý Hoàng –
Trường Sa của chúng ta.
Chính sự nhu nhược của chính quyền Việt Nam, thái độ cả nể với “ông
anh” “cùng hội cùng thuyền” (cộng sản) này đã đẩy Trường Sa cũng như
biển Đông này càng rơi dần vào chiếc thòng lọng của Trung Quốc.
Có vẻ như Việt Nam đã “ngộ” ra khi mới đây báo chí được cởi mở hơn với
vấn đề được cho là “nhạy cảm” này và điều đặc biệt, một Hội nghị mở bàn
về biển Đông đã diễn ra tại Hà Nội hôm 17/3/2009.
Nhưng điều đó là không đủ và quá chậm trễ! Phát biểu của các học giả
trong Hội nghị cũng cho biết không thể giữ Hoàng- Trường Sa chỉ bằng
cảm tính, mà phải bằng công tác nghiên cứu, tài liệu lịch sử, quảng bá
hình ảnh, quan hệ ngoại giao… và tất cả những việc này, Việt Nam đều đi
sau Trung Quốc. Trong khi Trung Quốc đã đầu tư cho công tác nghiên cứu
từ lâu, Việt Nam vẫn chưa có một quỹ nào cho công việc này, chưa có một
tổ chức, một cơ quan chuyên trách nào, chưa có luật cơ sở về đường
biển, thiếu khung pháp lý, chưa được ngân sách đầu tư.v.v.
Đã vậy, tài liệu của ta lại mất mát do chiến tranh, do những người nắm
giữ chúng đi ra nước ngoài sau năm 1975, đội ngũ nghiên cứu khoa học
thì phân tán khắp nơi, khác biệt về chính kiến chính trị, chia rẽ về
quan điểm.
Để bảo vệ được chủ quyền với 2 quần đảo trên cũng như với phần thềm
lục địa của Việt Nam, trước khi quá trễ, thiết nghĩ không còn cách nào
khác, đảng phải công khai hóa toàn bộ thông tin, cho phép báo chí tự do
bàn, viết (ít nhất là về vấn đề này), cho phép dân chúng được bày tỏ
lòng yêu nước cũng như sự phẫn nộ với những hành động của Trung Quốc
liên quan tới Hoàng – Trường Sa và biển Đông.
Mặt khác, kêu gọi những nhà khoa học Việt Nam tại hải ngoại (dù bất
đồng chính kiến), các nhà khoa học nước ngoài cung cấp tài liệu, chứng
cứ, công bố những nghiên cứu liên quan tới chủ quyền của Việt Nam với
các quần đảo này; đầu tư một ngân sách xứng đáng cho công tác khảo
sát, nghiên cứu, đưa biển Đông nói chung, Hoàng Sa và Trường Sa nói
riêng vào chương trình giáo dục phổ thông ngay từ cấp cơ sở; tiến hành
đồng thời việc thu thập chứng cứ pháp lý, tài liệu lịch sử với việc
tranh thủ sự ủng hộ ngoại giao; đầu tư xứng đáng cho lĩnh vực hải
quân.v.v.
Điều quan trọng hơn cả, đảng phải biết đặt quyền lợi của dân tộc lên
trên quyền lợi của mình. Đừng vì quyền lợi của đảng mà chịu lép vế với
Trung Quốc. Đừng độc quyền yêu nước nữa! Hãy để dân được tự do quyết
định vận mệnh của đất nước, nhân dân Việt Nam với truyền thống 4000 năm
chống ngoại xâm sẽ biết phải làm gì để giữ gìn non sông gấm vóc.
© 2009 www.danchimviet.com
Nguồn: Ðàn Chim Việt
|