Thiện Ý
Cám ơn nhà thơ Hoàng Hưng và giáo sư Huệ Chi đã có bài viết sâu sắc khuyến khích tôi cầm bút hưởng ứng các anh tiếp tục tìm nguyên nhân băng hoại đạo đức.
Những kẻ gây “thảm họa mang tên hoa” còn có thể tự bào chữa là tìm…
“một cách giải tỏa tâm lý… sau những tháng ngày chịu sự cai quản nhiều
khi khiên cưỡng của cả một hệ thống” (Hoàng Hưng). Tuy nhiên mấy năm
qua, chúng ta từng chứng kiến những hành vi thấp hèn hơn thú vật như:
Ông phó văn phòng UBND Hà Nội không cho mẹ đẻ dùng chung toa let; bà mẹ
liệt sĩ ở Quảng Bình bị con trai và cháu nội của mình hành hạ đến chết;
ở Gò Vấp một người hàng xóm quá bất bình đã quay được đoạn video clip
ông con trai tát mẹ mình; ở Bình Phước, một bà mẹ đã cắt gân chân đứa
con lên 3 tuổi. Ông giám đốc công trình Đại lộ Đông Tây ăn hối lộ của
người Nhật. Bà Tổng giám đốc ở Huế lấy cắp đồng hồ bị bắt ở Thái Lan.
Các nhà hàng buffet ở Singapore treo bảng bằng tiếng Việt: “Chỉ lấy
thức ăn vừa đủ” (không có bảng viết tiếng Anh). Nhiều cán bộ chính
quyền cấp xã, cấp huyện ở nhiều tỉnh đã ăn chặn tiền trợ cấp cho người
nghèo dịp Tết Kỷ Sửu… Đó những biểu hiện của sự sa đọa đến cùng cực
của đạo đức.
1. Đạo đức truyền thống Việt Nam
Đạo đức Việt Nam hình thành trên cơ sở tư tưởng nhân văn cao đẹp của dân tộc: Thương người như thể thương thân, Bầu ơi thương lấy bí cùng, Một giọt máu đào hơn ao nước lã…
Tam cương ngũ thường của Trung Quốc vào nước ta đã được Việt Nam hóa
theo tầm cao nhân văn ấy. Dân tộc ta luôn bị ngoại bang đe dọa, cho nên
nợ nước nặng hơn ơn vua. Triều Nguyễn dời đô vào Huế, vị thế của vua
thấp xuống một bậc trong lòng dân. Rồi họa mất nước làm cho lòng dân
càng nặng nợ nước, coi thường vua. Chữ Hiếu của ta không thiên lệch về
người cha như ở Trung Quốc mà “công cha” ngang bằng với “nghĩa mẹ”.
Trung Quốc buộc “phu xướng phụ tùy”, còn chúng ta đặt “vợ “trước
“chồng” và khuyên “đồng vợ đồng chồng tát biển Đông cũng cạn”.
Như nhiều nước châu Á, chúng ta xếp các hạng người trong xã hội
thành “tứ dân” theo thứ tự: Sĩ, Nông, Công, Thương. Sĩ là người có học,
là tấm gương “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” cho xã hội noi theo. Ông đồ,
thầy giáo được cả xã hội kính trọng: Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy; Không thầy đố mày làm nên. Quan lại cũng là người có học nhưng phải được xét xem có thanh liêm hay không mới được kính trọng.
Có nhiều sách đề cao hiếu nghĩa như: Gia huấn ca, Nhị thập tứ hiếu, phê phán kẻ xấu đề cao người ngay như Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu. Đạo đức, nhất là đạo hiếu được dạy từ khi trẻ học nói, học vỡ lòng.
Cách mạng tháng Tám rồi kháng chiến chống Pháp, toàn dân Việt Nam
đoàn kết chiến đấu giành độc lập. Đạo đức truyền thống được giữ vững và
tôn cao. Các bà mẹ nhận chiến sĩ Vệ quốc đoàn là con, lo cho từng miếng
cơm, manh áo. Chiến sĩ đi đến đâu cũng được sống trong tình ruột thịt.
Cán bộ cách mạng dù là ở cấp nào cũng được dân chúng xem là con em
mình. Trong buổi nói chuyện với đoàn cán bộ miền Bắc sắp đi B (vào
Nam), Tổng Bí thư Lê Duẩn kể: “Các bà má ở Tháp Mười biết tôi là bí
thư Trung ương cục, nhưng khi tôi đến nhà vẫn hỏi: ‘Thằng Ba mầy ăn cơm
chưa? Chưa, thì vô bếp lấy chén đũa ra ngồi vào.’” Ở các vùng giải
phóng, đêm nhà nhà không cần đóng cửa.
Mấy năm sau, bắt đầu được nghe rằng: Cách mạng tháng Tám đã thành
lập Nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Cùng với Nhà nước Công
Nông, ý thức hệ cộng sản dần dần lên ngôi. Đầu những năm 50 trở đi,
những cuộc cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, cải tạo công thương
nghiệp được thực hiện. Từ đó, nhiều phen đạo đức truyền thống bị đánh
trọng thương.Từ đó, một hệ thống đạo đức mới có tính giai cấp được đặt
ra. Và cũng từ đó, bắt đầu quá trình xuống cấp đạo đức dân tộc.
2. Đoạn tuyệt với tư tưởng cổ truyền
Ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa chịu sự lãnh đạo của các Đảng
theo chủ nghĩa Mác-Lênin, việc xóa bỏ đạo đức cũ, xây dựng đạo đức mới
đều na ná như nhau. Do đó, chúng ta cùng nghe lại ý kiến của Mác-Ănghen
ở “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” trong phần 2, “Những người vô sản và
những người cộng sản” (Nhà xuất bản Sự Thật trang 77), đoạn nói vì sao
phải xóa bỏ đạo đức cũ, xây dựng đạo đức mới:
“… Có người sẽ bảo: “Cố nhiên là những
quan điểm tôn giáo, đạo đức, triết học, chính trị, pháp quyền v.v… đã
biến đổi trong tiến trình phát triển lịch sử. Nhưng tôn giáo, đạo đức,
triết học, chính trị, pháp quyền vẫn luôn được bảo tồn qua những biến
đổi ấy.
Vả lại còn có những chân lý vĩnh cửu như
tự do, công lý v.v… chung cho tất cả mọi chế độ xã hội.Thế mà chủ nghĩa
cộng sản lại xóa bỏ những chân lý vĩnh cửu, nó xóa bỏ tôn giáo và đạo
đức chứ không đổi mới tôn giáo và đạo đức; làm như thế là trái ngược
với tất cả sự phát triển lịch sử trước kia.”
Lời buộc tội ấy rốt cuộc lại là gì? Lịch
sử của tiến bộ xã hội từ trước đến nay đều diễn ra trong đối kháng giai
cấp, những đối kháng mang những hình thức khác nhau tùy từng thời đại.
Nhưng dù những đối kháng ấy mang hình
thức nào đi nữa, hiện tượng một bộ phận này của xã hội bóc lột một bộ
phận khác cũng vẫn là một hiện tượng chung cho tất cả các thế kỷ trước
kia.
Vậy không có gì đáng lấy làm lạ khi thấy
rằng ý thức xã hội của mọi thế kỷ mặc dù có muôn màu muôn vẻ và hết sức
khác nhau vẫn vận động trong một số hình thức chung nào đó, trong những
hình thức ý thức chỉ hoàn toàn tiêu tan khi hoàn toàn không còn có đối
kháng giữa các giai cấp nữa.
Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn
tuyệt triệt để nhất với chế độ sở hữu cổ truyền; không có gì đáng lấy
làm lạ khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt
một cách triệt để nhất với tư tưởng cổ truyền…”
Từ những năm 50, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á đặt lại vị
trí tứ dân như sau: Giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng. Giai cấp
nông dân là quân chủ lực cách mạng. Nông dân lại chia thành: Cố nông,
bần nông và trung nông. Cố nông, bần nông được coi là cốt cán rất tin
cậy, còn trung nông lại chia thành trung nông lớp dưới được tin cậy hơn
và trung nông lớp trên ít được tin cậy. Phú nông là những người vừa lao
động vừa bóc lột, cần phải tước bỏ tính bóc lột của họ. Địa chủ từ nay
không được coi là thành phần yêu nước mà là đối tượng phải triệt để
tiêu diệt để giải phóng dân cày… Trí thức được kèm thêm tính từ “tiểu
tư sản” và được đánh giá là có lập trường bấp bênh, dao động không vững
vàng cần phải theo dõi, uốn nắn. Những người làm thương nghiệp bị coi
là tệ hại nhất. Giai cấp tư sản nói chung là đối tượng mà cách mạng xã
hội chủ nghĩa phải tiêu diệt, nhưng tư sản thương nghiệp được gọi là
“bọn mại bản” phải diệt trước tiên. Việc buôn bán do thương nghiêp quốc
doanh nắm hết. Từ “thương nghiêp” bị từ “phân phối” lấn dần. Người buôn
bán nhỏ bị gọi một cách khinh thị là “con phe”, “bọn phe phẩy”.
Từ đây không còn thực sự đại đoàn kết mà chuyển sang đấu tranh giai
cấp triền miên. Đạo đức truyền thống đặt xuống dưới ý thức hệ cộng sản.
Đảng,chính quyền và các đoàn thể liên tục mở các đợt chỉnh huấn, phê,
tự phê bình để xóa bỏ quan điểm, lập trường, ý thức hệ cũ, xây dựng
quan điểm, lập trường giai cấp vô sản, đạo đức cách mạng vô sản.
Đạo đức cao nhất của mọi người là trung thành với chủ nghĩa Mác- Lê
mà cụ thể là thực hiện thắng lợi Nghị quyết của ĐCSVN, để đấu tranh
tiêu diệt các giai cấp thù địch, xây dựng thành công CNXH và CNCS. Lời
Bác Hồ dạy “trung với nước” đã bị sửa thành “trung với Đảng”. Theo
Lênin thì Đảng Cộng sản là công cụ của giai cấp công nhân để tiến hành
cách mạng vô sản, nhưng rồi với nguyên tắc dân chủ tập trung, lãnh tụ
Đảng trở thành Thượng đế và Đảng trở thành một thứ tôn giáo. Lãnh tụ
của quốc tế cộng sản còn đáng kính yêu hơn cả cha mẹ mình: “Vui biết
mấy khi con học nói.Tiếng đầu đời con gọi Stalin” (Tố Hữu).
Xã hội Việt Nam dần dần mất hẳn tính dân sự mà trở thành xã hội
chính trị. Từ nhi đồng đến phụ lão, mọi giới, mọi tầng lớp giai cấp đều
gia nhập đoàn thể chính trị, thường xuyên kiểm điểm quan điểm lập
trường cách mạng. Nhiệm vụ cao cả của đoàn thể thiếu nhi là vượt “kế
hoạch nhỏ” chứ không phải giúp nhau trở thành đứa con hiếu thảo. Đoàn
Thanh niên là cánh tay, là lực lượng hậu bị của Đảng. Công đoàn là công
cụ của Đảng để tập hợp công nhân. Yêu nước phải là yêu nước xã hội chủ
nghĩa. Chữ Hiếu truyền thống cũng bắt đầu bị xem lại, và có thang bậc
nội dung mới.
Trong cuộc chỉnh Đảng TW khóa 2, Bác Hồ nói:
“Có người nói người cộng sản là vô tình,
là bất hiếu. Con làm cộng sản có khi phải bỏ cả bố mẹ. Cái đó có không?
Có! Người cách mạng nhất là người đa tình, chí hiếu nhất. Vì sao? Nếu
không làm cách mạng thì chẳng những bố mẹ mình mà hàng chục triệu bố mẹ
người khác cũng bị đế quốc phong kiến giày vò. Mình không những cứu bố
mẹ mình mà còn cứu bố mẹ người khác, bố mẹ của cả nước nữa. Phải hiểu
chữ Hiếu theo tinh thần cách mạng rộng rãi như vậy… Gia đình to (là cả
nước) và gia đình nhỏ: Cái nào nặng? Cái nào nhẹ? Người cách mạng chọn
gia đình to. Vì người cách mạng biết nếu gia đình to bị áp bức, bóc lột
thì gia đình nhỏ sẽ suy sụp, không phát triển được. Vì vậy không thể bo
bo giữ gia đình nhỏ mà không nghĩ đến gia đình to.
Đó là cách hiểu xa thấy rộng. Phải hy sinh cái nhỏ cho cái lớn. Phải hy sinh cái riêng cho cái chung.”
(Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, trang 389)
Đạo đức cũ khi nói về “tề gia trị quốc”, sách Đại học
(quyển 1 của Tứ Thư) viết: “Bảo rằng muốn trị nước, tất trước phải điều
chỉnh trong nhà. Nghĩa là không dạy được trong nhà thì không thể dạy
được người ngoài… Có hiếu là biết phụng sự vua. Có đễ là biết phụng sự
người lớn” và “Một nhà có nhân, một nước cũng phấn khởi mà có nhân”…
Ta thấy đạo đức xưa chỉ dạy phụng sự vua cũng là có hiếu với cha mẹ,
chứ không đòi con cái phải chọn việc phụng sự vua mà hy sinh cha mẹ.
Có lẽ vì “cách mạng chọn gia đình to”, hy sinh “gia đình nhỏ” mới
thể hiện được triệt để tư tưởng tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân mà
“5 điều Bác Hồ dạy” cho trẻ từ bậc tiểu học, trung học không có điều
nào dạy con cái phải hiếu thảo kính yêu cha mẹ, ông bà. Cha mẹ, ông bà
của gia đình nhỏ đã được đặt trong gia đình lớn: “Yêu Tổ quốc,yêu đồng
bào”.
Trong quyển hồi ký Chuyện làng ngày ấy, nhà thơ Võ Văn Trực
đã kể khá sinh động chuyện chùa chiền miếu mạo bị hoang phế’, mồ mả ông
bà bị tập thể hóa,… Đó là hành động cực đoan của những người vừa mới
“giác ngộ ý thức hệ vô sản.” Tiếp theo đó, trong hồi ký Cọng rêu dưới đáy ao, Võ Văn Trực cũng kể rất cụ thể những chuyện buộc người ta hy sinh mọi lợi ích cá nhân cho lợi ích tập thể.
Sau khi vào miền Nam chiến đấu nhiều năm, trở ra Hà Nội, nhà báo
Thái Duy (tức nhà văn Trần Đình Vân, tác giả quyển Sống như anh) tâm sự
với vài đồng chí chúng tôi: “Đảng mình có trách nhiệm đã làm xuống cấp
đạo đức của người dân Hà Nội. Hồi mình đi học, mỗi khi thấy đám ma từ
xa, bọn mình đã xuống xe đạp, giở mũ cúi đầu, chờ xe tang đi qua. Còn
nay bọn trẻ ngang nhiên phóng xe, lại còn chửi thề tại sao xe tang đi
chậm”.
3. Đạo đức cách mạng
Ý thức hệ cộng sản đòi hỏi một nền đạo đức mới mang tính giai cấp vô
sản, giai cấp mang sứ mệnh đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ
nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Đạo đức vô sản xây dựng trên nền
tảng chủ nghĩa tập thể “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, lợi ích
cá nhân phải nhường cho lợi ích tập thể. Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đề ra nội dung đạo đức cách mạng gồm: Trung với nước, hiếu với
dân; Đảng là đạo đức là văn minh; Yêu thương chăm sóc cho con người;
Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân; Cần, kiệm,
liêm, chính; Chí công vô tư.
Chí công vô tư là một khái niệm đạo đức cũ. Chí công là rất công
bằng, vô tư là không có lòng riêng khi làm việc chung. Khái niệm đạo
đức này dành cho các quan chức, chứ không phải chung cho mọi người.
Nhưng cụ Hồ nâng ý nghĩa cụm từ này thành nội dung đạo đức cách mạng xã
hội chủ nghĩa: “Trong Đảng ta có những người chưa học được, chưa làm
được bốn chữ “chí công vô tư “cho nên mắc phải chứng chủ nghĩa cá nhân”
(Toàn tập, tập 4, trang 470). Người cho rằng chủ nghĩa cá nhân
là nguyên nhân sinh ra 10 chứng bệnh. Người nhiều lần kêu gọi “nâng cao
đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Theo cách hiểu phổ
biến là triệt tiêu cái riêng, đưa cái chung, cái “tập thể” lên địa vị
độc tôn. Thậm chí phải có chí công vô tư thì mới thực hiện được cần
kiệm liêm chính. Trong thời chiến lời kêu gọi quên mình đi dễ được mọi
người chấp nhận. Nhưng thật ra trước khi chấp nhận hy sinh tính mạng
cho Tổ quốc, không phải người ta quên bản thân mình mà chính lúc ấy con
người càng có ý thức rất cao về mạng sống, về trách nhiệm và danh dự
của cá nhân mình đối với dân tộc. Đó là khoảnh khắc thăng hoa tuyệt vời
của mỗi cá nhân.
Có 2 điều trong các nội dung đạo đức cách mạng kể trên, càng ngày
càng tỏ ra không thể thực hiện được là: Quét sạch chủ nghĩa cá nhân và
Chí công vô tư. Chí công, đồng ý thôi, nhưng sao lại “vô tư”, phải quên
mình trong cuộc sống bình thường? Tại sao không phải là hài hòa lợi ích
công-tư? Tại sao những nhu cầu chính đáng của con người lai bị coi là
đòi hỏi của chủ nghĩa cá nhân? Yêu cầu vô lý đó đã bóp nghẹt sức sáng
tạo của quần chúng. Nhưng tại sao chỉ có giới văn nghệ sĩ phản ứng mạnh
nhất và họ phải bị đè bẹp bằng vụ án Nhân văn-Giai phẩm? Đó là bởi đặc thù của lao động văn học nghệ thuật đòi hỏi phải được sự tự do cá nhân tuyệt đối!
Chủ nghĩa tập thể tạo ra thói vô trách nhiệm: Nhiều sãi không ai
đóng cửa chùa. Của chùa mạnh ai nấy xâu xé. Mọi hư hỏng sai lầm không
quy được cho cá nhân nào chịu trách nhiệm.
Những ai tham gia kháng chiến chống Pháp đều biết giai thoại này:
Bọn Năm Lửa, Ba Gà Mổ bảo nhau “Bọn Việt Minh hội họp liên miên không
còn thì giờ đánh mình, nếu chúng nó bớt hội họp thì nguy cho mình
lắm!”. Từ đó đến nay đã hơn 60 năm, mặc cho mọi lời kêu gọi giảm hội
họp, bệnh nghiện họp vẫn tỏ ra nan y! Tại sao vậy? Bởi vì các cấp Đảng,
chính quyền, đoàn thể theo nguyên tắc “Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách” đều rất cần có quyết định của tập thể để phòng khi công việc
thất bại sẽ không có ai phải bị giơ đầu ra chịu báng!
Tuy ý thức hệ được đặt trên đạo đức truyền thống, nhưng lạ thay, tất cả các Đảng
Cộng sản đều tôn thờ chủ nghĩa lý lịch, rất coi trọng thành phần gia
đình. Đời ông đời cha đã là “kẻ thù giai cấp” thì đời con thậm chí đời
cháu cũng không được tin dùng. Khi chống đối nhau, người ta tìm mọi
cách truy thành phần gia đình và các mối quan hệ với “kẻ thù cách mạng”
để bôi nhọ nhau. Ngay Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng bị săm soi lý lịch.
Có đảng viên lấy chồng nước ngoài hoặc Việt kiều đã bị gợi ý làm đơn
xin ra khỏi Đảng và xin thôi việc (chị Thúy Hà, đảng viên ưu tú, thư ký
tòa soạn báo Phụ nữ TP Hồ Chí Minh lấy chồng Việt kiều phải
làm đơn xin ra Đảng). Do đó cán bộ đảng viên khai man lý lịch, che giấu
việc làm trong quá khứ rất phổ biến!
Đảng kêu gọi tự do tư tưởng, coi đó là quy luật tiến bộ. Tuy nhiên,
tự do tư tưởng phải trong vòng “kim cô” của Nghị quyết Đảng. Những
người phát huy tự do tư tưởng ra ngoài quỹ đạo như Hoàng Minh Chính,
Đặng Kim Giang, Nguyễn Kiến Giang, Vũ Đình Huỳnh, Dương Bạch Mai và sau
này là Trần Độ… bị coi là những phần tử chống Đảng. Để tránh bị quy
chụp, nhiều đảng viên nghĩ một đằng nói một nẻo. Nhà văn Nguyễn Khải,
một đảng viên 60 tuổi đảng, trong tùy bút chính trị cuối cùng (dặn
người nhà chỉ công bố sau khi mình đã chết) có những câu nghe thê thảm:
“Nói cũng sợ, vì nói thế là đúng hay sai? Đến vẻ mặt của mình cũng phải
canh chừng, vui quá sợ mất cảnh giác, khen quá có thể đã ăn phải bả của
nền kinh tế tư bản”. Thật ra số đông đảng viên đều có tâm trạng giống
như Nguyễn Khải mà chưa dám thổ lộ!
Không có tự do cạnh tranh, các nước theo chủ nghĩa xã hội dùng phong
trào thi đua để thúc đẩy sức sáng tạo.Tuy nhiên ngay khi ra đời hình
thức này đã gây ra tệ nạn báo cáo láo. Ở miền Bắc ai cũng đã nghe
chuyện Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm trại lợn hợp tác xã. Ông hết
sức ngạc nhiên khi thấy lợn cắn nhau quá dữ dội! Thì ra chủ nhiệm trại
lợn đã có “sáng kiến” mượn lợn cá thể của các gia đình đem nhốt chung
vào chuồng hợp tác xã, để báo cáo Thủ tướng về tốc độ phát triển thần
kỳ của chăn nuôi tập thể, chứng minh tính ưu việt không thể chối cãi
của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Một trong những nguyên nhân làm
sa sút ngành giáo dục cũng là do phong trào thi đua “dạy tốt học tốt”.
Không có đối lập, chủ nghiã xã hội khuyến khích phê bình, tự phê
binh bù cho ý kiến phản biện. Nhưng thực tế cho thấy hình thức này chỉ
khuyến khích thói che giấu sai sót và bới móc lẫn nhau gây ra mất đoàn
kết nội bộ.
Nền đạo đức có tính giai cấp xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa tập thể,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân, đặt ra khuôn mẫu xây dựng “con người mới
xã hội chủ nghĩa” theo kiểu dùng chiếc giường Procuste, đặt con người
lên đó, ai dài thì chặt bớt cho vừa, ai ngắn thì phải kéo cho dài ra!
Con người mới xã hội chủ nghĩa là con người giai cấp, mọi tính người
hình thành trong lịch sử là của giai cấp tư sản cần phải cắt bỏ không
thương tiếc! Cho đến ngày phe xã hội chủ nghĩa sụp đổ, con người mới
kiểu đó vẫn chỉ là ảo ảnh. Ngay có người là ủy viên Bộ Chính trị bị
phát hiện không phải con người mới! (Nhân đây xin nói, chính Bác Hồ
cũng có nhầm lẫn khi nói “Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
phải có con người xã hội chủ nghĩa”, vì chủ nghĩa Mác cho rằng vật chất
có trước ý thức.)
Nền đạo đức xã hội chủ nghĩa chỉ có thể tạo ra “Một xã hội mà công
dân không được quyền sống thật, nói thật” (Tùy bút của Nguyễn Khải).
Cách đây hơn nửa thế kỷ, triết gia, nhà văn Ayn Rand (Hoa Kỳ) đã viết
rằng: “Chủ nghĩa tập thể giữ nguyên những nguyên tắc đạo đức tôn giáo.
Có điều họ thay từ “Chúa” bằng từ “Xã hội” để đẩy con người vào chỗ tự
hi sinh làm vật tế thần” (Lời tựa lần tái bản quyển The Fountainhead).
4. Chủ nghĩa tập thể là “vũ khí hữu hiệu”?
Chiến tranh liên miên làm cho người dân kiên nhẫn chấp nhận cơ chế
toàn trị xã hội chủ nghĩa, với đạo đức cách mạng trên cơ sở chủ nghĩa
tập thể. Tuy nhiên, tôi không nghĩ như nhà thơ Hoàng Hưng là “Chủ nghĩa
tập thể cực đoan lên ngôi ở miền Bắc, trở thành vũ khí hữu hiệu trong
thời chiến. Chính nó đã đánh bại con người cá nhân của chế độ miền Nam.”
Không phải! Chế độ Sài Gòn (và cả Hoa Kỳ, quốc gia sinh ra và nuôi
dưỡng chế độ này, đã đưa hơn nửa triệu quân sang bảo vệ nó) không thua
chủ nghĩa tập thể, không thua ý thức hệ cộng sản mà phải sòng phẳng nói
rằng, họ đã thua chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam (Tức nhiên là
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo). Chính McNamara, cựu Bộ trưởng
Chiến tranh của Hoa Kỳ cũng đã nhận ra điều ấy trong quyển hồi ký của
ông. Để thấy rõ hơn điều này, chúng ta có thể dẫn chứng trường hợp của
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên là nơi chủ nghĩa tâp thể cực đoan
được tung hô mạnh mẽ nhất trong thế giới cộng sản, lại được hằng triệu
quân Trung cộng yểm trợ, thế mà vẫn không thể đánh bại được “con người
cá nhân”của Hàn quốc! Chỉ vì họ không làm được cuộc Cách mạng tháng Tám
như Đảng Cộng sản Việt Nam, do đó không nắm được dân tộc.
Có thể nói không sợ sai là “Chỉ có thực hiện dân chủ thì mới phát
huy hết sức mạnh của nhân dân”. Nếu như một nhà nước dân chủ mà bị số
đông dân chúng phản đối thì chắc chắn rằng chính sách của nhà nước ấy
đang có sai lầm. Ví dụ phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ nổ ra là
khi họ nhận ra đây không chỉ là cuộc chiến ý thức hệ (dù Hoa Kỳ và các
cường quốc khác cố tạo ra điều đó) mà là sự xâm lược, đàn áp một dân
tộc. Phải xem đó là chỗ mạnh của xã hội dân chủ chớ đừng cho là chỗ
yếu. Nhờ có chế độ dân chủ mà Mỹ, một siêu cường, đã sớm rút quân sau 5
năm (1965-1969), còn Việt Nam dù có lý do chính đáng là chống bọn
Khmer Đỏ diệt chủng, nhưng đã có mặt ở Campuchia tới 10 năm, trong
khi nước ta đang gặp rất nhiều khó khăn và bị bao vây cấm vận.
Các nhà nghiên cứu có quan điểm chống cộng cho rằng có nhiều đảng
viên cộng sản yêu nước,nhưng Đảng Cộng sản thì không! Các bạn ấy nên
nhớ rằng Nguyễn Ái Quốc chịu theo Quốc tế Cộng sản chỉ vì đọc “Luận
cương giải phóng dân tộc” của Lênin, chứ lúc ấy ông không biết gì về
chủ nghĩa cộng sản. Và suốt đời ông cũng chưa bao giờ được Quốc tế Cộng
sản tin là người đã giác ngộ cộng sản. Những người được Quốc tế Cộng
sản tin cậy như Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong … đều phê phán
Nguyễn Ái Quốc chưa quán triệt chủ nghĩa cộng sản. Mới đây tại cuộc
hội thảo Việt Nam học ở Hà Nội, lần đầu tiên người ta được nghe giáo sư
Yoshiharu Tsuboi của Nhật Bản khẳng định rằng tư tưởng Hồ Chi Minh là
tư tưởng cộng hòa. Chúng tôi nghĩ nhận định của ông rất có cơ sở. Chính
Cụ Hồ, tác giả bản “Tuyên ngôn Độc lập” thể hiện sâu sắc nguyện vọng
Dân chủ Cộng hòa của dân tộc Việt Nam, đã gửi nhiều thư cho Tổng thống
Mỹ mà không được hồi âm. Nhiều nhà nghiên cứu Hoa Kỳ đã lấy làm tiếc
về điều này! Rõ ràng là chính thực dân Pháp và các chính quyền Mỹ từ
Truman trở đi đã từng bước đẩy Cụ Hồ và cả dân tộc Việt Nam vào hẳn quỹ
đạo cộng sản. Hai cuộc chiến do Pháp và Mỹ gây ra đã làm cho dân tộc
Việt Nam gắn chặt hơn với chủ nghĩa xã hội, làm cho cộng sản mạnh lên.
Sau Cụ Hồ, ông Lê Duẩn, một người được coi là cứng rắn, là tác giả đã
thiết kế chiến lược của cuộc chiến tranh chống Mỹ, cũng cho rằng Đảng
Cộng sản Việt Nam phải giương cao hai ngọn cờ Dân tộc và Chủ nghĩa xã
hội. Lịch sử gần 80 năm qua cho thấy điều gì mà Đảng Cộng sản Việt Nam
thực hiện dưới lá cờ Dân tộc thì đều đem lại thắng lợi, điều gì do ý
thức hệ công sản chỉ đạo thì đều thất bại.
Sau khi Khởi nghĩa Yên Bái thất bại, những đảng viên ưu tú của Quốc
dân Đảng như Trần Huy Liệu, Nguyễn Bình… đều chuyển sang lập trường
cộng sản. Số lớn đảng viên các đảng theo chủ nghĩa dân tộc sống lưu
vong ở nước ngoài không liên hệ chặt chẽ với nhân dân trong nước, không
xây dựng được lực lượng để chuẩn bị khi thời cơ đến. Nhà tù của thực
dân từ Hỏa Lò, Khám Lớn đến Côn Đảo những năm 1930-1945 gần như chỉ
dành riêng cho người cộng sản. Do đó Đảng Cộng sản Việt Nam đã đóng
trọn vai trò lãnh đạo toàn dân tộc, làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám và
đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến Điện Biên Phủ. Mới đây, trong lễ
nhận Huân chương văn hóa Pháp tại Hà Nội, nhà văn Dương Tường phát
biểu: “Chính những lý tưởng tự do dân chủ được Jean Jacques Rousseau
tuyên ngôn đã đưa tôi đến với cuộc Cách mạng tháng Tám, giải phóng dân
tộc tôi khỏi ách thực dân Pháp”, được các đại sứ Pháp ngữ đồng tình.
Những người tự xưng mình theo chủ nghĩa quốc gia, từ Nguyễn Văn
Thinh, Lê Văn Hoạch, Trần Văn Hữu, cho đến Bảo Đại đều không được thực
dân Pháp (Hoa Kỳ chi viện 85% chiến phí) trao quyền độc lập dân tộc
thực sự mà chỉ cho ăn bánh vẽ. Ông Ngô Đình Diệm được người Mỹ đưa về
và trao cho đầy đủ các quyền, nhưng ở vào thời điểm quá muộn mằn, lại
phải gánh một quá khứ u ám, do đó không thể nào nhận được lòng tin của
dân tộc. Cũng có thể nói, ông Diệm được hưởng thành quả không phải do
mình chiến đấu giành được mà nhờ cuộc kháng chiến 9 năm đã khiến cho
các thế lực nước ngoài thấy cần phải nâng đỡ ông thành một lãnh tụ
chống cộng. Dưới ông Diệm, các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn
Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ… đều đã từng mặc quân phục do các thống chế
Pháp thiết kế thì làm sao tranh thủ được lòng dân? Rồi nửa triệu quân
Mỹ ùa vào nước ta đã làm cho những lãnh tụ Việt Nam Cộng hòa trở thành
những con rối của Mỹ và khiến cho rất nhiều người không thích chủ
nghĩa cộng sản cũng bước vào cùng chiến hào với cộng sản để “chống Mỹ
cứu nước”! Nếu nắm được dân tộc thì Việt Nam Cộng hòa dù mất hết các
thành thị vẫn có thể vào rừng tiếp tục chiến đấu như người cộng sản đã
làm suốt 30 năm của hai cuộc chiến tranh.
Vinh danh những người lính Mỹ chết ở Khe Sanh là vì “sự thịnh vượng
và tự do” của Hoa Kỳ, ông Obama tỏ ra có thủ đoạn chính trị khôn ngoan,
nhưng không hợp với lương tri và cũng không đúng với thực tế lịch sử.
Chủ nghĩa cộng sản không bị đánh gục bởi kẻ thù của nó như ông Obama
nhận định mà bởi chính những người cộng sản và nhân dân các nước cộng
sản, khi họ nhận biết con đường cộng sản đã tách ra khỏi con đường lớn
của văn minh nhân loại và đi vào ngõ cụt, không có tương lai.
Tóm lại, chủ nghĩa tập thể không hề là “vũ khí cực kỳ hữu hiệu” dù
thời bình hay thời chiến. Trước họa ngoại xâm, các dân tộc chớ tìm đến
cái chủ nghĩa tập thể đó mà hãy tìm đến dân chủ như đức vua Trần của
Việt Nam đã mở Hội nghị Diên Hồng trước họa Nguyên Mông.
5. Đạo đức cách mạng xung khắc với Đổi mới
Sau 30-4-75, đã qua cái thời “Các đảng viên cộng sản, xung
phong!”,”Đảng viên đi trước, làng nước theo sau!”. Từ nay vào Đảng
không phải để hy sinh chiến đấu mà vào Đảng là được đứng trước cánh cửa
thăng quan tiến chức, không phải để cống hiến mà để chia phần. Cũng từ
nay, những kẻ cơ hội, xu nịnh, tỏ ra có nhiều khả năng thuyết phục được
những đồng chí có trách nhiêm canh cửa chính trị chọn lựa người kế cận
hơn là những ai khiêm nhường, tự trọng. Cùng với các tiêu chuẩn “hồng”
trọng hơn “chuyên”; “đức” (chủ yếu là quan điểm lập trường) đặt trên
“tài”, thành phần công nông quý hơn trí thức, đã làm cho đảng viên, cán
bộ lớp sau sa sút dần so với lớp trước. Ông Nguyễn Thừa Nghiệp, một cán
bộ công đoàn đã nghỉ hưu, người dành cả đời mình chăm lo bảo vệ công
nhân, cho rằng việc đảo ngược vị trí ”sĩ, nông, công, thương”, thành
“công, nông, trí” không khác nào đem tay chân thay thế cho đầu óc của
cả xã hội! Thế giới ngày nay đang “bùng nổ thông tin”, “kinh tế tri
thức”, tại sao chúng ta lại đặt trí thức vào cuối bảng?!
Những năm 80, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế và chính trị hết
sức nghiêm trọng. Chuyện tiếu lâm mới lan tràn, báo hiệu chế độ lung
lay. Ở Thành phố HCM, hai ông Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt đã làm một
việc tày đình là “xé rào” để thực hiện điều mà hai ông gọi là “Hài hòa
3 lợi ích” (lợi ích cá nhân người lao động, lợi ích của doanh nghiệp và
lợi ích Nhà nước.) Trong một cuộc học tập chính trị ở Hà Nội, nhiều nhà
lý luận Mác-Lê chỉ trích gay gắt cái “chủ nghĩa tự do kinh tế đang nảy
sinh ở Sài Gòn”. Tuy nhiên việc làm trái với luật pháp và đạo đức xã
hội chủ nghĩa ấy lại rất hợp lòng dân và đem lại hiệu quả cực kỳ to
lớn. Người bạo gan làm việc ấy được nhân dân suy tôn, được toàn Đảng ca
ngợi và từ chỗ bị loại khỏi Bộ Chính trị ở Đại hội Đảng lần thứ V (do
không tán thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam) đã được trở vào Bộ
Chính trị, làm ứng viên sáng giá chức vụ Tổng Bí thư ở Đại hội VI.
(Ông Hoàng Trọng Đỉnh, Phó Tổng biên tập báo Lao động , khi đọc quyển Thành phố Hồ Chí Minh 10 năm của Nguyễn Văn Linh đã reo lên: “Ông này phải là Tổng Bí thư!”.
Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư
đề xướng Đổi mới, tuy muộn nhưng là một quyết định rất sáng suốt, đã
đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và phát triển nhanh chóng. “Đổi
mới” thực sự là từ bỏ nhiều nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê.
Những điều trước đây ông Kim Ngọc và các ông bị quy tội chống Đảng đòi
hỏi, nay Đổi mới đã vượt qua rất xa, đặc biệt ở lĩnh vực kinh tế. Tự do
kinh tế đã chọc thủng chế độ toàn trị xã hội chủ nghĩa một mảng lớn. Xã
hội chuyển dần từ quỹ đạo vô sản sang hữu sản. Nhiều đảng viên trở
thành “tư sản đỏ”. Con trai ông Lê Duẩn cũng bỏ Đảng để làm doanh nhân
(Từ “tư sản” vẫn còn bị kiêng dùng!).
Rất đáng tiếc, ông Nguyễn Văn Linh không ý thức được rằng “3 lợi
ích” do ông là một tác giả, sở dĩ làm bật dậy sức sáng tạo của toàn dân
là vì nó chống lại chủ nghĩa tập thể lỗi thời của lý thuyết cộng sản.
Ông xé rào như một cách “chữa cháy” chứ không đủ tri thức để định hướng
cho con đường Đổi mới có mục tiêu minh bạch. Ông không muốn và cũng
không có khả năng chỉ đạo các lý thuyết gia nghiên cứu biên soạn những
bài học từ thực tiễn, tiếp tục đưa Đổi mới mạnh mẽ vượt qua rào cản của
“định hướng xã hội chủ nghĩa”. Ông không dựa hẳn vào người đồng tác
giả “3 lợi ích” với mình là ông Võ Văn Kiệt, người có những suy nghĩ
sâu sắc muốn đưa đổi mới đi xa hơn, mà lại dựa vào những người to
tiếng “bảo vệ chủ nghĩa xã hội”. Điều đó làm cho Đổi mới cứ ngập ngừng,
bệnh cơ hội có đất nảy nở, tiêu cực xã hội phát triển, khiến cho đạo
đức xã hội dần dần xuống cấp.
Đổi mới đã làm cho đời sống vật chất được cải thiện rõ rệt, nhưng
đạo đức xã hội thì như tụt dốc không phanh. Nhiều lý thuyết gia cho
rằng đó là do”mặt trái”, “đứa con hư” của cơ chế thị trường. Người ta
quên rằng xã hội chúng ta đã từng sống trong kinh tế thị trường trước
khi đi vào con đường xã hội chủ nghĩa. Vậy phải tìm ở những nguyên
nhân khác!
Xin thử nêu ra vài suy nghĩ bước đầu:
- Tự do kinh tế giải phóng sức sáng tạo cá nhân, đồng thời đòi
hỏi phải trả lại cho cá nhân những quyền và lợi mà họ đã bị tước đoạt
nhân danh lợi ích tập thể. Không thể “chí công vô tư” mà phải “công tư
lưỡng lợi”, ở doanh nghiệp thì “lao tư lưỡng lợi”, hoặc nói như Nguyễn
Văn Linh, Võ Văn Kiệt là “Thực hiện hài hòa 3 lợi ích”. Tiếc thay, ý
kiến chính thống vẫn không chấp nhận thực tế rất đúng đắn, rất hợp đạo
lý đó, mà vẫn cứ kiên trì “chí công vô tư”, vẫn “quét sạch chủ nghĩa
cá nhân”, vẫn “quốc doanh là chủ đạo”, “đất đai phải là sở hữu của
toàn dân”… Chính vì thế mà cuộc sống bày ra vô số điều nghịch lý.
- Cán bộ đảng viên, những đại biểu của giai cấp vô sản, những
đầy tớ của nhân dân, những người thuyết lý hay ho nhất về chí công vô
tư lại là những ông chủ hữu sản lớn nhất, nhiều ông là “tư sản đỏ” sống
cách biệt với nhân dân! Nhiều nơi nhân dân trớ trêu đặt tên cho các khu
biệt thự sang trọng là “khu nhà của đày tớ”! Tấm bình phong “đất đai là
của toàn dân” chỉ để tạo điều kiện cho các quan tham biến thành vườn
nhà, hoặc móc ngoặc chia chác với nhà đầu tư nước ngoài, làm cho nông
dân mất hết đất canh tác.
- Công nhân luôn nghe mình được xưng tụng là giai cấp lãnh đạo
cách mạng, nhưng thực tế là việc làm bấp bênh, đồng lương không đủ
sống, nhà cửa dột nát, con cái không được học hành. Họ buộc phải nghĩ
rằng mình được cho ăn bánh vẽ và khi quá cùng cực họ đã tổ chức đến
2500 cuộc đình công mà không cần thông qua công đoàn, tổ chức có danh
nghĩa là đại diện hợp pháp của họ!
- Những cuộc học tập đạo đức Bác Hồ đối chiếu với thực tế cuộc
sống đang diễn ra hoàn toàn trái ngược: Trên báo chí ngày nào cũng đọc
thấy những chuyện thối tha: Ông bộ trưởng tham nhũng bị đi tù; ông phó
Tổng cục trưởng mua dâm trẻ em; ông trung tướng công an, ông giám đốc
Đài phát thanh móc ngoặc với bọn xã hội đen; ông phó ban Tổ chức tỉnh
ủy đi bia ôm trong giờ hành chính; ông Bí thư Tỉnh ủy được đưa tiền
mua chức. Rất, rất nhiều ông đồng chí khác, kể cả những ông cán bộ
tuyên huấn cấp huyện, những người chuyên lên lớp về đạo đức Bác Hồ cũng
đã ăn chặn tiền quyên góp cứu trợ đồng bào bị thiên tai, tiền Tết của
đồng bào nghèo… Người dân buộc phải nghĩ: Đạo đức cách mạng hóa ra chỉ
là chuyện đầu môi chót lưỡi của mấy ông cán bộ, đảng viên.
- Nhìn xã hội ai cũng thấy rõ ràng là đang đi vào quỹ đạo tư
bản chủ nghĩa trong từng bước hội nhập, nhưng lại được dạy bảo là chúng
ta đang kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, khiến người lớn tuổi thầm
nhắc lời của Thiệu: “Đừng nghe…” Chính những vị lão thành cách mạng
cũng phân vân: “Có thật là chúng ta đang đi lên chủ nghĩa xã hội?”
- Trong xã hội cũ, tầng lớp trí thức là những người nêu gương
về lối sống cho cộng đồng như thày đồ, thày giáo. Sau cách mạng, tầng
lớp này bị hạ xuống rất thấp. Thấp đến nỗi không còn được học sinh của
mình tôn trọng. Xã hội chính trị tôn vinh tột bậc những ông bí thư
Đảng, chủ tich các đoàn thể, những đảng viên có chức có quyền thành
nhân vật quan trọng nhất trong cộng đồng. Các nhân vật ấy ngày nay có
cuộc sống vật chất cao hơn mọi người, nói những lời cao đạo hơn mọi
người, nhưng làm nhiều điều ám muội hơn mọi người! Xã hội buộc phải
nghĩ ngược và làm ngược lại những lời “vàng ngọc” mà những kẻ ấy
thường lên giọng daỵ dỗ mình.
6. Làm gì để khôi phục đạo đức?
Trong một lần góp ý cải tiến chương trình giáo dục, nhà văn Nguyễn
Khắc Phục kể rằng hồi ông cắp sách đến trường, chương trình giáo dục
cũng không hiện đại gì, nhưng vì được học những điều mình tin, nhờ đó
mà tất cả bạn học của ông đều nên người.
Tôi cho rằng ý kiến đó rất đáng cho chúng ta suy nghĩ để có một
chiến lược giáo dục, trước hết là dạy những điều không ai có thể nghi
ngờ trước khi đạt đến yêu cầu tiên tiến. Nói rộng ra, mọi vấn đề trong
xã hội đều phải được gọi đúng “tên cúng cơm” của nó!
Trước hết là Đảng. Ngày xưa, các đảng viên cộng sản khi giơ tay thề
chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa cộng sản, họ đều có niềm tin
vững chắc, dù không biết chủ nghĩa cộng sản cụ thể ra sao! Cái sai lớn
nhất mà ý thức hệ đó gây ra là cải cách ruộng đất thì đã được Bác Hồ
xin lỗi nhân dân và sửa sai rồi. Nhiều sai lầm khác cũng được cho là do
“ấu trĩ”. Sau 20 năm thực hiện Đổi mới, Đảng đã từ bỏ nhiều nguyên lý
của chủ nghĩa cộng sản, đưa xã hội ta khởi sắc nhiều mặt, kể cả vấn đề
tự do, dân chủ. Nhờ đó mà huy động được toàn dân đóng góp tiền tài, vật
lực, trí tuệ, tâm huyết phát triển đất nước. Nhiều Việt kiều lúc ra đi
đã thề rằng chỉ khi nào không còn Đảng Cộng sản mới trở về, vậy mà nay
đã vui vẻ chung tay xây dựng mái nhà chung. Được như vậy là vì số đông
nhân dân trong và ngoài nước đã nghĩ giống như ông Nguyễn Cao Kỳ, khi
ông trả lời phỏng vấn của nhà báo hải ngoại Nguyễn Vi Túy: “Tôi hiểu
căn bản của Đảng Cộng sản và người cộng sản là… không có tư hữu và chỉ
có một giai cấp. Nhưng khi cái căn bản chính ấy mà họ đã bỏ đi rồi, thì
chẳng khác nào chuyện ông thầy tu đã phạm giới rồi mà vẫn còn muốn
người đời gọi mình là kẻ tu hành.”
Chẳng lẽ chúng ta sẽ đính chính với ông Kỳ và mọi người rằng: “Không
đâu, đây chỉ là sách lược tạm thời. Đến khi nào chủ nghĩa Mác-Lê vượt
qua cơn thoái trào, chúng tôi sẽ lại cải tạo xã hội chủ nghĩa, thực
hiện đúng nguyên lý của Mác”? Còn nếu không thì hóa ra chúng ta “treo
đầu dê bán thịt chó”? Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng trong hoàn cảnh
như chúng ta, nhưng họ đã có thái độ khá rõ ràng khi đưa ra lý thuyết
“3 đại diện”, khẳng định rằng Đảng là của toàn dân tộc chứ không phải
trước hết là của giai cấp công nhân. Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam làm như
vậy chắc chắn sẽ được “danh chính ngôn thuận”, toàn dân tộc sẽ vui mừng
tin tưởng hơn.
Nhưng tại sao chúng ta chỉ có thể làm theo như Trung Quốc chứ? Tại
sao chúng ta không chủ động sáng tạo đi xa hơn họ? Khi mà ngay ở quê
hương Cách mạng tháng Mười, người ta đã vĩnh viễn quay lưng với cái lý
thuyết triệt để giải phóng con người, nhưng thực tế lại đưa con người
vào tình trạng cần được giải phóng, như thoát khỏi sự khiếp sợ của
Nguyễn Khải chẳng hạn? Hơn nữa, khi “Đảng là của dân tộc”, chúng ta trở
lại đúng thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều mà lãnh tụ của nhiều Đảng
Cộng sản khác, kể cả Đảng Cộng sản Trung Quốc không có được! (Có lẽ vì
thế mà họ đang đề cao học thuyết của Khổng Tử như là tư tưởng dân
tộc?)
Hãy trở lại với đạo đức làm người chứ không phải làm ông thánh, để
rồi không làm được ông thánh thì mất hết niềm tin, sa đọa dần và trở
thành những tên lưu manh. Mới đây, trong ngày đầu năm mới, chị Trần Mai
Liên, mẹ của một học sinh trung học ở Gò Vấp đã gởi cho báo Phụ nữ Thành phố HCM
(số báo ngày 3-2-2009) điều ước đầu năm của mình như sau: “Chương trình
ở bậc phổ thông hiện nay rất nặng. Để biên soạn lại bộ sách cần phải có
thời gian, nhưng riêng môn đạo đức giáo dục công dân, thiết nghĩ cần
phải thay đổi ngay. Bởi chương trình môn học này có quá nhiều kiến thức
không phù hợp với lứa tuổi học sinh. Tôi nghĩ cần phải dạy cho các em
biết yêu thương kính trọng ông bà, cha mẹ, anh chị em và mọi người,
biết sống có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng, không tham lam, ích kỷ.”
Mong muốn của một người dân bình thường sao mà giản dị và thiết thực
đến vậy! Tại sao những người học cao và có trách nhiệm lớn lại không
nghĩ tới? Vừa qua, tại Lễ hội Yên Tử, một số nhà sư đã cho in các nội
dung về đạo làm người. Họ nói đây là lời dạy của đức Phật. Nội dung rất
cạn cợt, nhưng đã được đông người vồ vập mua với giá 10 nghìn đồng 1
tờ! Xin chép ra vài câu. Bàn về chữ Hiếu: “Đi khắp thế gian, không ai
tốt bằng mẹ. Gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng cha. Nước biển mênh
mông, không đong đầy tình mẹ. Mây trời lồng lộng, không phủ kín công
cha”… Các nhà giáo dục nghĩ gì trước hiện tượng này? Có phải vì chúng
ta không đáp ứng đúng nguyện vọng của nhân dân, cho nên các nhà sư đã
làm thay?
Chúng ta nên can đảm dám từ bỏ những nội dung “Quét sạch chủ nghĩa
cá nhân”, vì nó không thể thực hiện được và đã gây phản tác dụng. Đừng
sợ như vậy là có lỗi với Bác Hồ. Chính Bác vẫn thường khuyên bảo nên
sửa đổi những gì không còn thích hợp. (Cụ Các Mác cũng từng bảo rằng
không nên để lý thuyết của ông bó tay những người cách mạng. Ông còn
nói, mình không phải là người mác-xít, với ý cho rằng khi lý thuyết trở
thành một chủ nghĩa thì sẽ dễ hóa ra giáo điều!) Chúng ta nên tự hào về
những giá trị vĩ đại khác của Bác Hồ như: “Không có gì quý hơn độc lập
tự do” (chứ không phải Chủ nghĩa xã hội!) và “Nước được độc lâp mà nhân
dân không được tự do hạnh phúc thì độc lập cũng không có ý nghĩa gì!”
Đây là tư tưởng nhân quyền của thời đại. Bác Hồ của chúng ta đã đi
trước hằng thập kỷ đối với các lý thuyết gia Hoa Kỳ khi họ nêu ra “Nhân
quyền cao hơn chủ quyền”. Hơn nữa, Bác Hồ nêu ra ý đó là để răn dạy
Đảng cầm quyền của mình chứ không nhằm gây áp lực đối với các dân tộc
chưa đủ điều kiện thực hiện.
Cán bộ công chức không phải là cha mẹ, cũng không phải đày tớ mà là
người ăn lương của dân để phục vụ nhân dân, là “của dân, do dân, vì
dân”. Đừng xem việc học tập đạo đức Bác Hồ là biện pháp hữu hiệu nhất
để chống tham nhũng. Bọn Huỳnh Ngọc Sĩ và các đảng viên ăn chặn tiền
Tết của dân nghèo đều đã học đạo đức Bác Hồ. Phải thực hiện “pháp trị”,
và ”tam quyền phân lập”, đưa xã hội đi vào khuôn phép, kỷ cương, chỉ
có như vậy mới chống tham nhũng đạt hiệu quả.
Đảng, đoàn thể phải hoạt động bằng nguyệt phí của đảng viên, đoàn
viên, chứ không phải bằng tiền từ ngân sách. Đó chính là biện pháp
chống quan liêu, xa quần chúng một cách hữu hiệu.Tại sao Đảng luôn luôn
kêu gọi đảng viên phải đi sát dân, lắng nghe dân mà rất ít người thực
hiện? Bởi vì cơ chế bầu cử, đề bạt hiện nay đều không do người dân
quyết định. Từ lâu nhân dân có câu “Đảng cử dân bầu”. Phải chấm dứt
cách làm đó và thay bằng ứng cử tự do và để cho dân đề cử người mình
tín nhiệm.
Tự do, dân chủ đã được Hiến pháp ghi nhận từ năm1946, phải nhanh
chóng được hiểu và thực hiên như nhân loại hiện đại đã hiểu và thực
hiện.
Các cô gái vừa tham gia xép hàng cho các chú rể Hàn coi mắt. Hình VnExpress
Chúng ta đã từng tự ru ngủ mình là một đất nước “ra ngõ gặp anh
hùng”, “dân tộc tiên phong của nhân loại, “lương tâm của thời đại”,
“nhận sứ mệnh lịch sử chiến thắng chủ nghĩa thực dân cũ, chủ nghĩa thực
dân mới và chủ nghĩa bành trướng bá quyền”… Nay hãy tỉnh táo nhìn lại
mình đang đứng ở khoảng cuối bảng xếp hạng của các quốc gia trong Liên
hiệp quốc! Đang chịu không biết bao nhiêu nỗi nhục. Chẳng hạn, cứ phải
nghe chuyện “Hơn 100 cô gái đẹp người Việt ngồi cho một anh Hàn quốc
(có khi là người khuyết tật) ngắm nghía sờ soạng để chọn vợ!” và còn
không biết bao nhiêu chuyện đau lòng khác. Nếu không mau mau gột bỏ
thói vô đạo đức đang trở thành “dân tộc tính”, tạo cho mình một phẩm
chất mới thì chẳng bao giờ hy vọng có thể sánh vai với nhân loại hiện
đại!
Tóm lại hãy làm những gì mà cuộc sống đòi hỏi và hãy từ bỏ thật
nhanh những gì chỉ nghĩ ra theo tư duy của ý thức hệ đã lỗi thời. Đó là
bài học lớn mà ông Lý Quang Diệu, lãnh tụ vĩ đại của nước Singapore
phát triển thần kỳ, đã rút ra và chỉ dẫn cho nhân dân nước ông tiến
tới. Hãy lấy một câu rất hay từ Nghị quyết của Đảng làm mục tiêu của
toàn dân tộc: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
Tất cả mọi việc đều minh bạch, chắc chắn đạo đức sẽ phục hồi.
© 2009 Thiện Ý
Nguồn: talawas
|