Phạm Trần
“...
Qua các sự việc rất khác thường liên quan đến biển đảo và chủ quyền
lãnh thổ đã và sẽ còn diễn ra ở trong nước trong thời gian tới, phải
chăng giờ đây đảng CSVN, sau nhiều năm ngủ mê và bị Tàu Bắc Kinh đưa
vào mê hồn trận, đã tỉnh ngủ và biết mở mắt ?...”
Chủ quyền Việt Nam thuộc về ai?
Ai cũng biết chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân, nhưng đảng Cộng
sản Việt Nam lại coi quyền này là của riêng họ nên đã mang họa Phương
Bắc vào thân ở Biển Đông kể từ sau ngày Tàu Bắc Kinh chiếm đảo Hoàng Sa
từ tay hải quân Việt Nam Cộng Hoà, tháng 1/1974, và sau đó chiếm một số
hòn đảo trong quần đảo Trường Sa trong trận hải chiến với hải quân CSVN
Tháng 3, 1988.
Bây giờ 35 năm sau ngày mất Hoàng Sa và 21 năm sau trận chiến ở Trường
Sa, đảng CSVN bắt đầu thấm đòn, biết mở mắt để thấy cái giá phải trả
cho chủ trương 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt xảo quyệt của Lãnh đạo
Trung Quốc: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
Nhưng CSVN đã hành động ra sao?
Hội thảo về biên giới
Trước hết vào ngày 25-12-2008 họ đã để cho Tạp chí Cộng sản
phối hợp với Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng tổ chức cuộc hội thảo chủ đề
"Đổi mới công tác xây dựng, quản lý và bảo vệ chủ quyền, an ninh biên
giới quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế ".
Tạp chí Cộng sản cho biết có trên 80 bài tham luận của nhiều
lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, các nhà quản lý, hoạt động thực
tiễn, các nhà khoa học trong và ngoài quân đội đã gửi đến tham gia hội
thảo.
Cuộc thảo luận nói nhiều đến biên giới đất liền và hải đảo, nhưng tránh
không nói trực tiếp đến cuộc tranh chấp giữa Việt Nam và Tàu tại Hoàng
Sa và với Tàu và các nước khác tại Trường Sa, theo tường thuật của Tạp chí Cộng sản.
Bài tổng kết của Nhật Tân viết theo ý kiến phát biểu: “Biên giới nước
ta là ranh giới pháp lý quốc tế, là “phên dậu” xác định không gian sinh
tồn của đời đời con cháu dân tộc Việt Nam; đồng thời, là không gian hợp
tác, mở rộng giao lưu giữa nước ta với các nước trên thế giới, đặc biệt
là với các nước láng giềng về tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh...”
“ ....An ninh trật tự trên biên giới, biển đảo còn diễn biến phức
tạp, hoạt động của các loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm về ma tuý,
tội phạm xuyên quốc gia, tội buôn lậu, buôn bán phụ nữ, trẻ em gia
tăng. Tình trạng xâm canh, xâm cư, vi phạm lãnh thổ, hoạt động truyền
đạo trái phép còn diễn ra phức tạp. Các thế lực thù địch lợi dụng vấn
đề dân tộc, tôn giáo, địa bàn biên giới phức tạp, còn nhiều khó khăn
hòng chống phá cách mạng nước ta...”
Có nhiều nguyên nhân gây ra phức tạp, theo bài báo, nhưng các hội thảo
viên đồng ý: “Nguyên nhân chính là do nhận thức của chúng ta chưa đầy
đủ về vị trí chiến lược của biên giới, chưa đặt công tác lãnh đạo, chỉ
đạo ngang tầm với nó; chưa thật coi trọng việc đầu tư xây dựng, quản
lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, biển đảo - một bộ phận hữu cơ
trong chiến lược quốc phòng, an ninh; việc xác định trách nhiệm của các
cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương chưa thật rõ ràng, cụ thể,
trong tổ chức thực hiện còn dàn đều, phân tán, thiếu tập trung dứt
điểm; chưa phát huy được sâu rộng phong trào quần chúng rộng rãi trong
quản lý, bảo vệ biên giới trong điều kiện mới; chưa có biện pháp mạnh
mẽ, kiên quyết để ngăn chặn tệ nạn buôn lậu qua biên giới, nhất là buôn
bán, vận chuyển trái phép chất ma túy; việc ban hành các văn bản hướng
dẫn thi hành luật, pháp lệnh có liên quan đến việc xây dựng, quản lý,
bảo vệ biên giới còn chậm, nhiều văn bản pháp quy không còn phù hợp
chưa kịp thời sửa đổi; thiếu một số văn bản cần thiết; không ít văn bản
chưa tạo hành lang pháp lý, thống nhất để xây dựng, quản lý và bảo vệ
biên giới, biển đảo.”
Nhiều ý kiến tại Hội thảo đã nhấn mạnh: “Hội nhập kinh tế quốc tế đang
diễn ra sôi động và có tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
nước ta, trong đó có tác động mạnh đến nhiệm vụ xây dựng, quản lý, bảo
vệ an ninh biên giới quốc gia. Đây là một nội dung quan trọng cần đặc
biệt lưu ý trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta đã khẳng định,
trong khi tập trung phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta không được lơ
là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, củng cố quốc phòng, an ninh, trong đó có
thực hiện tốt việc xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên
giới, biển đảo quốc gia.”
Trong cuộc thảo luận cấp cao hiếm có này, những người tham dự đã khẳng định:
1 - Bảo đảm sự thiêng liêng bất khả xâm phạm của biên giới quốc gia.
2 - Phát huy được cả hai chức năng cơ bản của biên giới là hàng rào pháp lý và không gian hợp tác.
3 - Đổi mới toàn diện, đồng bộ tất cả các khâu, bảo đảm mối quan hệ
biện chứng giữa các khâu xây dựng - quản lý - bảo vệ an ninh biên giới
quốc gia.
4 - Tiến hành đổi mới cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và làm chủ của nhân
dân, lấy lực lượng bộ đội biên phòng làm nòng cốt....
...Tiếp tục đầu tư xây dựng các tuyến phòng thủ biển đảo. Bố trí dân
sinh sống ở các đảo có vị trí quan trọng. Đẩy mạnh việc tổ chức các
đoàn tàu đánh bắt hải sản xa bờ, đồng thời có chính sách khuyến khích,
bao tiêu sản phẩm, tổ chức dịch vụ và công tác bảo vệ bảo đảm cho ngư
dân yên tâm làm ăn trên biển.
....Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến biên giới,
biển đảo để kịp thời sửa đổi, bổ sung và ban hành những văn bản mới đáp
ứng yêu cầu xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc
gia trong thời kỳ hội nhập.
...Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, tập trung xây dựng lực
lượng chuyên trách, nòng cốt là Bộ đội Biên phòng, vững mạnh chính quy,
từng bước hiện đại làm nòng cốt cho công tác quản lý, bảo vệ biên giới,
biển đảo. Nghiên cứu đầu tư xây dựng, trang bị vũ khí phương tiện, kỹ
thuật đủ điều kiện thực thi nhiệm vụ trong tình hình mới; đồng thời,
sớm có cơ chế phối hợp, hiệp đồng các lực lượng tạo sức mạnh tổng hợp
trong quản lý bảo vệ biên giới, biển đảo.”
Hội thảo Biển Đông
Nếu cuộc hội thảo trên đây không trực tiếp chĩa mũi dùi vào Tàu Bắc
Kinh thì cuộc hội thảo ngày 17/3 /2009 tại Hà Nội giữa “các nhà nghiên
cứu của Việt Nam, trong và ngoài nước” lại công khai tranh luận về vấn
đề chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông và âm mưu bành trướng lãnh thổ
của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Bản tin đăng trên báo điện từ ViệtNamNet, cơ quan ngôn
luận do Bộ Thông Tin-Truyền Thông làm chủ, cho biết cuộc hội thảo do
Học viện Ngoại giao tổ chức lần thứ nhất với chủ đề “Tranh chấp chủ
quyển tại Biển Đông: Lịch sử, Địa chính trị và Luật pháp quốc tế”.
Như vậy là đảng và nhà nước CSVN đã “bật đèn xanh” để cho các nhà khoa
học, chuyên viên, nghiên cứu về Biển Đông và Lịch sử được tự do tổ chức
thảo luận về vấn đề vẫn thường được coi là “ngoại giao nhạy cảm” đối
với Trung Hoa trong cuộc tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông?
Nhưng tại sao lại phải hành động “ném đá giấu tay”, không dám công khai
tổ chức các cuộc thảo luận như thế trên danh nghĩa chính thức của Bộ
Ngọai giao vì sợ chạm đến “dung nhan” Trung Quốc chăng?
Báo ViệtNamNet viết: “Đây là cuộc gặp đầu tiên trong khuôn
khổ một loạt các hoạt động nhằm đẩy mạnh việc thu thập, nghiên cứu tài
liệu về Biển Đông, giúp tìm căn cứ pháp lý và luận cứ khoa học, giúp
ích cho Việt Nam trong quá trình xử lý vấn đề biên giới trên biển.
Những người tổ chức hội thảo kì vọng trong thời gian tới, hội thảo sẽ
được mở ở tầm quốc tế và sẽ có cả những cuộc thảo luận tay đôi giữa
giới học giả Việt Nam và Trung Quốc về những vấn đề liên quan”.
Báo này tường thuật: “Tiến Sĩ Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện
Khoa học Chiến lược, Bộ Công an cho rằng, dầu và khí đốt chỉ là mục
tiêu trước mắt nhưng lâu dài là vấn đề địa chiến lược, địa chính trị
của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
"Hoàng Sa và Trường Sa như hai đồn biên phòng trên biển. Ai chiếm giữ
được Hoàng Sa và Trường Sa, người đó sẽ khống chế được Biển Đông, khống
chế được Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, tức là nắm giữ được yết hầu
kinh tế của các quốc gia Đông Bắc Á, từ đó đẩy Mỹ ra khỏi khu vực…"
“Tuy nhiên”, báo này viết tiếp, “nhiều người nhận định, dùng vũ lực để
độc chiếm sẽ không phải là lựa chọn của Trung Quốc, ít nhất vào thời
điểm này, khi thời và thế chưa đạt. Những tuyên bố cấp cao song phương
Việt - Trung đều khẳng định giải quyết bằng phương pháp hoà bình các
tranh chấp và tìm giải pháp hợp tác cùng phát triển. Hơn nữa, những
ràng buộc pháp lý quốc tế trong điều kiện hiện nay sẽ buộc Trung Quốc
phải cân nhắc cẩn trọng”.
“Theo nhiều học giả, đã đến lúc Việt Nam phải tính các phương án,
kịch bản khác nhau và đưa ra lộ trình đàm phán thực chất với Trung Quốc
và các bên liên quan (trong trường hợp Trường Sa) về hai quần đảo này.”
Tiến Sĩ Nguyễn Bá Diến, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Luật biển và hàng
hải quốc tế, Đại Học Quốc Gia Hà Nội nói: “Chuẩn bị luận cứ pháp lý là
yêu cầu đầu tiên và phải là chính", Các luận cứ lịch sử, luận cứ địa lý
cũng rất quan trọng nhưng chỉ là luận cứ tham khảo”.
Một chuyên gia của Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam nói:“Chủ quyền là
thiêng liêng và không thể nhân nhượng, thế nhưng không thể giữ chủ
quyền chỉ bằng cảm tính. Chúng ta phải đấu tranh bằng cơ sở pháp lý,
bằng những bằng chứng không thể chối cãi”.
“ Với Trung Quốc, Việt Nam cần tận dụng quan hệ tích cực giữa hai
nước, đẩy vấn đề đang còn tồn đọng giữa hai bên. "Trong quan hệ quốc tế
phải minh bạch. Có những vấn đề phải đặt lên bàn đối tác mới giải quyết
được, càng tù mù càng khó", ông Nguyễn Xuân Thắng nói.
Các chuyên gia cũng khuyến cáo, theo tường thuật của ViệtNamNet:
“Việc xử lý tranh chấp trên biển phải gắn với xây dựng và thực thi một
chiến lược biển nghiêm túc và đầy đủ, không phải chỉ là chiến lược kinh
tế biển, vốn có trên văn bản là chính như hiện nay.”
Muốn vậy, các học giả nhấn mạnh: “Việt Nam phải chuẩn bị kĩ lưỡng, xây
dựng lực lượng đàng hoàng, để nói được, trao đổi được với đối tác. Đại
diện Quỹ nghiên cứu Biển Đông gợi ý Việt Nam có thể cấp học bổng từ
ngân sách nhà nước cho các nghiên cứu viên đi đào tạo ở nước ngoài về
luật biển quốc tế.
Một học giả không nêu tên nói trong cuộc hội thảo: “Điều đáng tiếc là,
ngay cả với lực lượng hiện tại vốn mỏng và được đánh giá là “không cân
sức” so với Trung Quốc, "hình như Việt Nam cũng chưa sử dụng, chưa biết
sử dụng, khai thác kết quả nghiên cứu của giới chuyên gia, chưa biết
tập hợp đội ngũ. Nhiều nhà nghiên cứu làm về biển Đông có ấn tượng hình
như mình làm gì sai…"
Tường thuật của ViệtNamNet còn tiết lộ về sự lơ là gìn giữ tài liệu lịch sử của nhà nước CSVN, theo các chuyên viên tham dự Hội thảo:
“Không chỉ mỏng, nguồn lực làm về Biển Đông còn bị phân tán. Nhiều tài
liệu quý hiếm đã biến mất cùng với sự ra đi của người giữ chúng. Việc
tiếp cận để tra cứu, khai thác tư liệu gặp nhiều trở ngại. Thực tế,
nhiều nhà nghiên cứu đã phải đối mặt với chuyện “biết có tư liệu quý mà
không lấy được”.
“Giới nghiên cứu thừa nhận hiện nay, nghiên cứu về Biển Đông vừa
yếu vừa thiếu. Thế nhưng, "hình như một lực lượng rất lớn và có giá trị
là các học giả Việt Nam ở nước ngoài lại đang bị bỏ quên”, bà Trần Thị
Ái Liên nêu.
Nhà báo Phương Loan kết thúc bài tường thuật bằng ý kiến chua chát:
“Việt Nam và Trung Quốc có thể “tạm gác tranh cãi cùng khai thác” trên
biển Đông, có lí nào người Việt Nam trong nước và người Việt Nam ngoài
nước lại không thể “tạm gác tranh cãi” để cùng đấu tranh cho chủ quyền
và cương giới lãnh thổ?
Sức mạnh dân tộc bao gồm tăng cường nội lực và đoàn kết nội bộ, cùng
với sức mạnh thời đại chính là cơ sở pháp lý vững chắc, tính chính
nghĩa của Việt Nam chính là điều kiện để Việt Nam có thể giành thắng
lợi trong công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ này”.
Các khuyến nghị
Theo bài viết đăng trên ViệtNamNet ngày 19-03-2009
của Tiến sĩ Trần Trường Thuỷ thuộc Chương trình Nghiên cứu Biển Đông -
Học viện Ngoại giao thì các Hội thảo viên đã đưa ra một số khuyến nghị
như sau:
-Chính sách của VN về Biển Đông phải đặt trong tổng thể chính sách đối
ngoại toàn diện, bao gồm cả an ninh, phát triển và nâng cao vai trò, vị
thế của Việt Nam. Phải đặt vấn đề Biển Đông trong quan hệ quốc tế khu
vực châu Á-Thái Bình Dương. Theo dõi các động thái của TQ, quan hệ
Trung – Mỹ, Trung Quốc- các nước ASEAN, quan hệ Trung-Đài.
-Phải xây dựng được hồ sơ pháp lý đầy đủ về vấn đề này dùng để đấu
tranh chính trị, tuyên truyền, đàm phán và lúc cần cho việc phân xử tại
Toà án quốc tế.
-Quốc hội cần thông qua luật về chủ quyền đối với Hoàng Sa -
Trường Sa. Chính phủ cần có chiến lược biển toàn diện và đồng
bộ, liên quan đến nhiều lĩnh vực, trong đó chú ý đến việc hiện đại hóa
quân đội nhằm tăng cường sức mạnh răn đe.
-Nên 4 hóa vấn đề tranh chấp ở Biển Đông: Xã hội hóa, Công khai hóa, Quốc tế hóa và Phi nhạy cảm hóa.
-Đấu tranh bảo vệ chủ quyền của VN đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa, biển Đông dựa trên hai sức mạnh là dân tộc và thời đại. Dân tộc: là
khối đại đoàn kết dân tộc (trong và ngoài nước); và Thời đại là luật
pháp quốc tế, tính chính nghĩa của VN.
-Tăng cường công tác nghiên cứu, nâng cao năng lực của đội ngũ khoa học
về Biển Đông. Cấp học bổng đi học tại nước ngoài. Tuyên truyền và giáo
dục cho thế hệ trẻ về Biển Đông, nuôi dưỡng tinh thần yêu nước và ý chí
bảo vệ chủ quyền dân tộc của các thế hệ mai sau, coi đó là một chiến
lược quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông của ta.
Trước cuộc Hội thảo ngày 17-3 -2009, báo Tuần Việt Nam, cũng của Bộ Thông Tin-Truyền Thông, ngày 19-1 -2009
đã giới thiệu bài viết của hai tác Lê Minh Phiếu - Dương Danh Huy nêu
lên những đề xuất về một chiến lược của Việt Nam trước chủ trương của
Trung Quốc đối với Biển Đông.
Hai tác giả tiết lộ: “Cùng với những đòi hỏi và những hành động đối với
Hoàng Sa, Trường Sa, Trung Quốc còn thể hiện quyết tâm đòi hỏi phần lớn
diện tích Biển Đông. Phần Biển Đông mà họ đòi hỏi nằm trong các đường
gạch nối trên Biển Đông, được đưa ra đầu tiên vào năm 1947, có hình chữ
U hay hình lưỡi bò và do vậy thường được gọi là “đường lưỡi bò” hay
“ranh giới lưỡi bò”. Phần diện tích trong đường lưỡi bò này chiếm
khoảng 75% diện tích trên Biển Đông, để lại khoảng 25% cho tất cả các
nước Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, và Việt Nam, tức mỗi
nước được trung bình 5%.”
Hai ông cho biết: “Năm 1992, Trung Quốc ký hợp đồng thăm dò vùng Tư
Chính – Vũng Mây với công ty Crestone. Năm 2007, Trung Quốc đưa ra quy
định theo đó tất cả bản đồ Trung Quốc phải vẽ ranh giới lưỡi bò này.
Cũng năm 2007, Trung Quốc áp lực tập đoàn dầu khí BP phải ngưng hợp tác
với Việt Nam trong hai vùng dầu khí Mộc Tinh, Hải Thạch
Năm 2008, Trung Quốc vẽ ranh giới lưỡi bò vào bản đồ rước đuốc Olympic
và Paralympic, nhưng sau đó gỡ ra khỏi bản đồ rước đuốc Olympic trên
trang web chính thức sau khi có tiếng nói phản đối từ phía Việt Nam gửi
đến Chủ tịch Ủy ban Olympic Quốc tế. Tháng 7 năm 2008, Trung Quốc áp
lực ExxonMobil không được hợp tác với Việt Nam trong vùng biển hợp pháp
của Việt Nam. Tháng 11 năm 2008, Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc
công bố dự án có vốn 29 tỷ USD để khảo sát và khai thác trên Biển Đông.
Những sự kiện trên cho thấy sự quyết tâm và leo thang của Trung Quốc trong việc thực hiện chủ trương đó.”
Hai tác giả cũng không ngần ngại khuyến cáo đảng CSVN phải biết vận
động sức mạnh của cả dân tộc, không chỉ riêng người dân trong nước để
góp sức đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Họ viết: “Trong hơn 60 năm qua kể từ khi Trung Quốc công bố bản đồ lưỡi
bò khoanh 75% Biển Đông một cách mập mờ vào năm 1947 cho tới nay, Việt
Nam chưa thực sự phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong
việc bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông. Đây là một thiệt thòi tương tự
như việc chiến đấu trong khi một tay bị buộc sau lưng.
Trong hoàn cảnh hiện nay, dân tộc Việt Nam cần phải vượt qua những cách
biệt và Nhà nước cần phải tạo điều kiện để phát huy sức mạnh tổng thể
của toàn dân trong việc đấu tranh chống lại những hành động “không thể
chấp nhận được” từ phía Trung Quốc.
“Để có thể phát huy sức mạnh của toàn dân, cần phải có một Quy tắc ứng
xử chung về Biển Đông giữa Nhà nước và nhân dân và giữa các cộng đồng
người Việt Nam với nhau. Quy tắc này không cần phải là luật, chỉ cần là
một thoả thuận bất thành văn, được nhiều cá nhân và hội nhóm công khai
tôn trọng.
Nếu không có một quy tắc ứng xử chung về Biển Đông cho dân tộc Việt
Nam, dù quy tắc đó chỉ là một sự thông cảm bất thành văn, thì nhân dân
và Nhà nước Việt Nam sẽ tiếp tục ứng phó trong tình trạng một tay bị
buộc chặt sau lưng, trong khi Trung Quốc càng ngày càng tiến xa, tiến
mạnh với yêu sách và hành động để biến 75% Biển Đông thành “biển lịch
sử” của họ.”
Bài viết hiếm hoi này kết luận: “Ngày nay, Việt Nam đứng trước một sự
đe doạ nguy hại cho tương lai lâu dài của dân tộc. Khác với trong quá
khứ, sự đe doạ này tiến triển rất chậm, nhưng càng ngày càng nghiêm
trọng, qua nhiều thập niên, có thể nói là cả thế kỷ. Nhiều khi sự đe
doạ này rất nhẹ nhàng, dường như không có, nhiều khi có những động thái
phi bạo lực, tương đối ít khi tiến tới bằng bạo lực. Nhưng chúng ta
đừng để sự nhẹ nhàng, chậm rãi này làm chúng ta coi thường hay thờ ơ.
Nếu sự đe doạ này đi tới đích của nó thì hậu quả cho đất nước sẽ vô
cùng trầm trọng. Chúng ta phải ứng phó sự đe doạ này với một sự tích
cực không kém gì tổ tiên ta đã từng giữ nước.”
Qua các sự việc rất khác thường liên quan đến biển đảo và chủ quyền
lãnh thổ đã và sẽ còn diễn ra ở trong nước trong thời gian tới, phải
chăng giờ đây đảng CSVN, sau nhiều năm ngủ mê và bị Tàu Bắc Kinh đưa
vào mê hồn trận, đã tỉnh ngủ và biết mở mắt ?
Nhưng làm sao để có được sự hợp tác của các chuyên viên, học giả và
đồng bào Việt Nam ở nước ngoài cùng chung sức đấu tranh bảo vệ đất đai
của Tổ tiên thì đó là việc đảng CSVN phải làm. Không người Việt nào
không yêu nước, dù ở chân trời góc biển nào, nhưng yêu nước không phải
là yêu Xã hội Chủ nghĩa như người Cộng sản vẫn tuyên xưng với đảng.
Những người cầm đầu đảng và nhà nước Cộng sản cũng phải tự đấm ngực hỏi
mình: Vì đâu mà đất đai của Tổ tiên đã bị mất về tay Tàu trong Hiệp ước
năm 1999, và tại sao Nhà nước CSVN đã im miệng không dám lên tiếng phản
đối khi Tàu chiếm Hoàng Sa năm 1974, sau đó lại ra tay đàn áp các cuộc
biểu tình chống Trung Quốc để bảo vệ lãnh thổ của sinh viên, học sinh
và đồng bào các giới trong hai ngày 9 và 16/12/1997 tại Sài Gòn và Hà
Nội?
Cũng nên tự hỏi: vì sao mà Phạm Văn Đồng, trong tư cách Thủ tướng Chính
phủ, dám nhắm mắt công nhận chủ quyền 75 % trên Biển Đông của Trung
Quốc, trong Thư gửi cho Chu Ân Lai ngày 14 tháng 9 năm 1958 để ngày nay phải ngậm đắng nuốt cay?Phạm Trần 19 Tháng Ba, 2009
|