Trung Điền
Ngày 11 tháng 3 vừa qua, Tổng Thống Phi Luật Tân bà Gloria Macapagal
Arroyo đã ký một đạo luật xác nhận chủ quyền của Phi Luật Tân trên
những quần đảo thuộc Biển Đông. Theo đạo luật này, Phi Luật Tân tái xác
định chủ quyền của họ trên 7,100 quần đảo lớn nhỏ trong vùng biển của
Phi bao gồm cả những chùm đảo Trường sa và Scarborough Shoal đang nằm
trong khu vực tranh chấp giữa Trung Quốc và Cộng sản Việt Nam. Trong
một cuộc họp báo công bố đạo luật này, Bộ trưởng hành pháp Phi Luật
Tân, ông Eduardo Ermita đã nói rằng: “Việc
Phi Luật Tân ký văn kiện luật nhằm gửi một thông điệp đến toàn thế giới
là Phi đang tái xác định chủ quyền quốc gia… vì ích lợi quốc gia của
chúng tôi”.
Tổng thống Phi Luật Tân bà Gloria Macapagal Arroyo và (từ trái qua) Chủ tịch Hạ viện Jose De Venecia,Bộ trưởng hành pháp Eduardo Ermita, Bộ trưởng Quốc phòng Gilbert Teodoro và Bộ trưởng Tư pháp Raul Gonzales
Ngay sau khi Phi Luật Tân công bố đạo luật tái
xác định chủ quyền các quần đảo trên biển Đông, tòa đại sứ Trung Quốc
đã lên tiếng phản đối và cho đây là hành động khiêu khích. Phía Cộng
sản Việt Nam thì kêu gọi chính quyền Phi kềm chế hành động có thể làm
sự tranh chấp trở nên nghiêm trọng. Nói chung phản ứng của các quốc gia
liên hệ trong vụ tranh chấp các quần đảo ở Biển Đông chỉ mới lên tiếng
chừng mực. Trong khi đó, thái độ của Phi Luật Tân là hòa nhã giải thích
với các nước lên tiếng chống đối. Bộ ngoại giao Phi Luật Tân đã cho
biết là việc Phi thông qua đạo luật không những nhằm tái khẳng định chủ
quyền của họ trên quần đảo Trường Sa và Scarborough Shoal mà còn để xác
định đường biên giới cơ bản và thềm lục địa mở rộng của Phi.Sự
kiện Phi ban hành đạo luật nói trên nhằm đáp ứng yêu cầu của Liên Hiệp
Quốc đòi hỏi các quốc gia đã ký vào Hiệp ước Luật Biển của Liên Hiệp
Quốc (1982) phải nộp bản đăng ký thềm lục địa mở rộng trước ngày 13
tháng 5 năm 2009. Theo Công Ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, mỗi
quốc gia ven biển được hưởng một vùng đặc quyền kinh tế rộng tối đa là
200 hải lý tính từ đường cơ sở của nước đó. Trong vùng đặc quyền kinh
tế này, mỗi quốc gia ven biển có quyền khai thác kinh tế đối với biển
và đáy biển. Công ước này còn quy định là nếu thềm lục địa của nước ven
biển kéo dài ra xa hơn 200 hải lý thì nước đó có đặc quyền khai thác
tài nguyên dưới đáy biển trong một vùng bên ngoài 200 hải lý là thềm
lục địa mở rộng.Thời gian gần đây, Cộng sản Việt Nam qua phát
ngôn nhân Lê Dũng của Bộ ngoại giao hay lên tiếng xác nhận chủ quyền
của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa mỗi khi có những
va chạm với Trung Quốc. Thật ra sự lên tiếng này cũng chỉ bắt đầu từ
năm 2008 sau khi bùng nổ phong trào thanh niên sinh viên chống Trung
Quốc lập đơn vị hành chánh Tam Sa trực thuộc đảo Hải Nam để quản trị
hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa vào cuối năm 2007. Nếu không có cuộc
chống đối rộng lớn này, Cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn im hơi lặng
tiếng trước những thái độ bá quyền của Trung Quốc trên Biển Đông từ
nhiều thập niên qua.Hoàng sa và Trường sa là của Việt Nam từ
ngàn xưa. Nhưng chính công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng ký vào năm
1958 công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo vùng Biển Đông đã
làm cho Cộng sản Việt Nam ở vào thế lúng túng. Tháng 9 năm ngoái, một
số đông cựu chiến binh Cộng sản Việt Nam đã gửi thư yêu cầu nhà cầm
quyền hủy công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng nhưng lãnh đạo Hà Nội
không dám làm. Nếu Cộng sản Việt Nam thật sự muốn bảo vệ đất nước và
nhất là bảo vệ những vùng lãnh hải của Việt Nam trên biển Đông, lãnh
đạo Hà Nội nên học theo cách làm của Phi Luật Tân. Chính thức công bố
một đạo luật tái xác nhận chủ quyền trên các quần đảo Hoàng sa – Trường
sa.Trên mặt công pháp quốc tế, từ năm 1945 cho đến nay, Cộng
sản Việt Nam chưa có một văn kiện pháp lý nào để xác định chủ quyền của
mình trên vùng tranh chấp biển Đông trong khi chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa tại miền Nam đã có Bạch Thư xác nhận chủ quyền trên các quần đảo
Hoàng sa và Trường sa. Ngay cả việc đệ đơn thỉnh nguyện đến Ủy ban phân
định thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc vào năm 1999, nhằm yêu cầu mở rộng
thềm lục địa từ 200 hải lý đến 350 hải lý theo Công ước của Liên Hiêp
Quốc về Luật Biển, Hà Nội cũng không làm. Sau 10 năm (1999- 2009), Liên
Hiêp Quốc cho triển hạn việc nộp đơn thỉnh nguyện, Cộng sản Việt Nam
vẫn tiếp tục im lặng không chịu nộp đơn. Hành động này của Cộng sản
Việt Nam chỉ có thể giải thích qua hai trường hợp.Thứ nhất,
Cộng sản Việt Nam không quan tâm gì đến chủ quyền trên Biển Đông. Những
sự lên tiếng tái xác nhận chủ quyền qua phát ngôn nhân Lê Dũng của Bộ
ngoại giao chỉ mang tính xoa dịu và trấn an dư luận mà thôi. Nếu thật
sự quan tâm đến chủ quyền, đảng Cộng sản Việt Nam đã có rất nhiều cách
để lên tiếng trước công luận thế giới như hủy bỏ công hàm Phạm Văn
Đồng, ra đạo luật tái xác định đường cơ sở như Phi Luật Tân và nhất là
nộp đơn cho Ủy ban phân định thềm lục địa Liên Hiệp Quốc để yêu cầu mở
rộng thềm lục địa trên 200 hải lý. Với những hành động này, Việt Nam đã
chính thức xác định chủ quyền của mình trước dư luận quốc tế, làm cơ sở
cho những cuộc đàm phán về tranh chấp chủ quyền giữa các nước trong
hiện tại và tương lai. Không có những nỗ lực này, Việt Nam sẽ không chỉ
mất hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa mà còn lần lượt mất chủ quyền
trên nhiều quần đảo khác ở Biển Đông do thái độ vô ý thức và vô trách
nhiệm này của lãnh đạo Hà Nội.Thứ hai, Cộng sản Việt Nam không
dám làm phật lòng đàn anh Bắc Kinh. Sau khi Liên Xô tan rã vào cuối năm
1991, Cộng sản Việt Nam đã tìm đến Trung Quốc như chỗ dựa mới. Gần hai
thập niên qua, Cộng sản Việt Nam đã rập khuôn theo các bước đi cải cách
của Bắc Kinh và hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc trên các mặt kinh tế,
chính trị, văn hóa, đối ngoại. Không những thế, Bắc Kinh đã dùng tiền
và quyền lợi để lôi kéo một thành phần cán bộ rất lớn trong đảng Cộng
sản Việt Nam ngã theo Bắc Kinh để phục vụ các quyền lợi của Bắc Kinh.
Hai hiệp ước về biên giới ký với Trung Quốc năm 1999 và Hiệp định phân
định Vịnh Bắc Việt ký với Trung Quốc năm 2000 cũng như cho phép Trung
Quốc hợp tác khai thác mỏ Bauxite tại Tây Nguyên từ năm 2008 trở đi
trong vòng 25 năm là những sản phẩm khấu tấu của lãnh đạo Hà Nội đối
với đàn anh Phương Bắc. Chính sự lệ thuộc quá nặng nề này, thành phần
lãnh đạo Hà Nội hiện nay không dám làm bất cứ điều gì gây khó chịu cho
Bắc Kinh.Sự kiện 5 tàu Trung Quốc vây quanh tàu USNS Impeccable
của Hoa Kỳ hôm mồng 8 tháng 3 dẫn đến những căng thẳng quân sự giữa Hoa
Kỳ và Trung Quốc trên biển Đông hiện đang làm cho dư luận thế giới quan
tâm. Điều đáng chú ý là sau ba ngày xảy ra sự vụ nói trên, Tổng Thống
Phi Luật Tân đã ký đạo luật xác nhận chủ quyền trên Biển Đông cho thấy
là Phi Luật Tân đã không hề lo ngại về thái độ hung hãn của hải quân
Trung Quốc. Mặc dù Bắc Kinh đang hung hăng chứng tỏ uy quyền trên vùng
biển Đông, nhưng chắc chắn là các quốc gia Đông Nam Á sẽ không chấp
nhận và sẽ có phản ứng. Liệu Cộng sản Việt Nam có dám đứng thẳng người
bênh vực quyền lợi của dân tộc như Phi Luật Tân đã làm hay không?
Trung Điền
Nguồn: Việt Tân
|