Thứ Ba, 2024-11-05, 8:47 PM
Welcome Guest | RSS

Dân Chủ Cho Việt Nam

Main » 2009 » Tháng Ba » 24 » Quân đội Việt Nam — 1979, Cơ hội đánh mất
4:13 AM
Quân đội Việt Nam — 1979, Cơ hội đánh mất

Trần Vũ
 
Sau chiến tranh biên giới 1979, quân đội Việt Nam rơi vào tình trạng xác ướp. Đến mức ngày nay khi nhắc đến tranh chấp Biển Đông, tuyệt đại bộ phận dân chúng cùng các phân tích gia thế giới đều tin quân đội này không đủ sức đương đầu với Hồng quân Trung Quốc. Đánh giá trái ngược hẳn với danh tiếng của một đạo quân từng chiến thắng ba đế quốc Pháp, Mỹ, Hoa.


Triển lãm chiến thắng quân Trung Quốc xâm lược ở Sài Gòn

Ba mươi năm sau các trận đánh Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn, quân đội Việt Nam dường như thiếp ngủ. Câu hỏi đặt ra: Có thật trong trận chiến 1979 chúng ta đã chiến thắng? Hệ thống tuyên truyền một thời của nhà nước khiến dân Việt tin Đặng Tiểu Bình thất bại. Có thật như vậy? Có thể trả lời: Đứng trên mặt chiến thuật, quân đội Việt Nam tiêu hao quân Tàu trong giao chiến. Đứng trên mặt chiến lược, quân đội này đánh mất cơ hội xác lập vị thế độc lập bất khả xâm phạm của quốc gia — khi không tiêu diệt các đại binh đoàn Trung Quốc. Kết thúc trận đánh là một thế thủ hòa, nhưng ‘‘hòa’’ vô cùng bất lợi.

Trong quá khứ, sau mỗi cuộc chiến các vương triều Đại Việt rồi Đại Nam thường xuyên triều cống, nhưng gần như chỉ chấp thuận triều cống một cách tượng trưng sau khi đã đánh tan sức mạnh quân sự của Bắc Kinh. Kết quả mập mờ của trận chiến biên giới đã không đặt Việt Nam vào thế mạnh cho phép chính phủ đương quyền thương thuyết bình đẳng, ngược lại, phải chấp nhận triều cống thực sự một phần lãnh hải và lãnh thổ. Quốc gia rơi vào thế yếu đánh mất dần độc lập chính trị hay một cách khiêm tốn, đánh mất dần quyền hành xử nền độc lập này. Chiến tranh biên giới, thực tế là một thất bại chiến lược.

Thất bại không hiển nhiên.

Quân đội Việt Nam đủ sức và đã có thể chiến thắng oanh liệt, đánh gẫy mộng bành trướng về phương Nam của Bắc Kinh, tái lập một lịch sử: sau mỗi chiến thắng lớn, quốc gia thụ hưởng hòa bình lâu dài, vì sau mỗi chiến thắng lớn, Bắc triều kinh hoảng mỗi khi nghĩ đến Nam chinh.

Lịch sử cũng chứng minh: Mỗi khi dân tộc Việt ngang bằng vũ khí với đối phương, dân tộc này chiến thắng. Tất cả những chiến thắng của Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ đều xây dựng trên sự cân bằng vũ khí, bất kể số lượng quân phương Bắc. Thảm bại của Hồ Quý Ly nằm trong nguyên nhân thiếu đồng thuận dân tộc nhiều hơn quân sự. Trong chiến tranh Việt-Pháp, ngay từ 1950, ngay khi có thể trang bị súng cối nặng 120 ly, đại bác không giật 75 ly, Việt Minh giành lại thế chủ động chiến trường từ tay quân viễn chinh. Ở vào thời điểm 1979, quân Việt Nam ngang sức với quân Tàu, ở cả ba mặt vũ khí, quân số và chiến thuật. Mạnh hơn rất nhiều, nếu tính đến kinh nghiệm chiến trường, khả năng thích ứng đã qua thử thách, khả năng đối đầu với các đạo quân đế quốc, cùng ưu thế đánh trên đất nhà. Tổng bí thư Lê Duẩn, cùng các đại tướng của Quân đội Nhân dân đã đánh mất cơ hội dạy ngược lại cho Đặng Tiểu Bình một bài học, nhắc lại cho dân Hán quá khứ thảm bại trên đất Việt. Với một chiến thắng sấm sét như đã từng xảy ra ở Đống Đa, tổ quốc sẽ mua được sự bình yên trong suốt thế kỷ 21. Trận chiến 1979, là một cơ hội đánh mất.

Trách nhiệm trước tiên nằm ở Quân ủy Trung ương. Trách nhiệm thứ nhì ở Bộ Tổng tham mưu. Cả hai cơ quan này đã không triển khai tối đa binh lực do không đặt mục tiêu: Tiêu diệt toàn bộ quân Tàu đã vượt biên giới; khiến hôm nay dân Việt bất lực chứng kiến mất đất, mất biển.

Tôn Tử, trong Binh pháp, bày ra ba đối sách: ‘‘Cao nhất là phá thế chiến lược đối phương. Thứ đến: Bằng ngoại giao phá thế liên hoàn giữa đối phương với các chư hầu và đồng minh. Đối sách thứ ba: Tấn công trên trận địa. Đánh thành là hạ sách.’’ [1]

Trong Cẩm nang chiến tranh, Clausewitz phân tích: ‘‘Trường hợp bị gây hấn, các dân tộc bị xâm chiếm phải hiểu có những thứ không thể đạt được bằng ngoại giao. Tấn công là hình thái phòng ngự tuyệt đối. Càng bất ngờ khi đối phương tự tin dũng mãnh. Nếu trận chiến ban đầu thường đem đến đoàn kết giúp một dân tộc từ tiểu khối trở thành một khối rắn, trận đánh đầu tiên phải đặt mục tiêu khiến đối phương từ nan.’’ [2] Cách nhìn của Gneiseau, Scharnhorst, Moltke, Schlieffen, các bậc thầy suy nghĩ quân sự Phổ, không khác.

Quân đội Nhân dân trong chiến tranh Việt-Pháp đã chứng minh am tường binh pháp, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp [3] thừa nhận suy nghiệm Clausewitz. Đứng trước khó khăn địa lý không cho phép đánh vào đầu não Phương diện quân Vân Nam hay Quảng Châu, Quân đội Nhân dân đã nhìn thấy thế liên hoàn Khmer-Trung Quốc và quyết định phá vây. Tiến đánh Kampuchia nằm trong động thái này. Nhưng đến đây Bộ Tổng tham mưu không có phương án nào khác để kháng Tàu, đánh chiếm Kampuchia với các quân đoàn chủ lực khiến bỏ trống biên giới phía Bắc là một lỗi lầm chiến lược.



Kể từ quý nhì 1978, chuyển biến mâu thuẫn Hoa-Việt gay gắt đến mức quân đội đứng trước tình thế phải chuẩn bị lâm chiến. Trong quá khứ tổ tiên luôn phải chọn lựa: Giao chiến ngay trên tuyến biên giới hay lui về châu thổ sông Hồng đánh vận động chiến. Trong đa số các trận chiến, vua quan Việt Nam phải bỏ biên giới, thậm chí bỏ Thăng Long để lui về Nghệ An. Đôi khi chặn đánh ngay trên ải Chi Lăng, như trường hợp Lê Sát chặn Liễu Thăng, nhưng những trường hợp này không nhiều.

Đối với Bộ Tổng tham mưu, vấn đề đặt ra càng thêm phức tạp: Lần đầu tiên, kể từ khi thành lập, Quân đội Nhân dân không sở đắc yếu tố thời gian. Trong chiến tranh Việt-Pháp, thời gian thuộc về Việt-Minh, càng kéo dài quân viễn chinh càng mệt mỏi. Trong nội chiến Nam-Bắc, thời gian vẫn thuộc về Bắc-Việt. Càng kéo dài, Quân lực Nam-Việt càng cô thế, khi đồng minh Hoa Kỳ giảm viện trợ và quân viện. Ngược lại, trong chiến tranh Hoa-Việt, thời điểm tấn công và thời gian tấn công, do Đặng Tiểu Bình quyết định. Nhìn rộng ra nữa, thời gian càng dài, Trung Hoa càng có thể huy động sức người, sức của, vượt xa khả năng của Việt Nam, từ hiện đại hóa quân đội đến trưng binh, áp lực quốc tế, phong tỏa hay yểm trợ quân Khmer, trong tất cả các lĩnh vực thời gian trở thành ưu thế của Bắc Kinh.

Để phá ưu thế này, đòi hỏi một kế sách rõ rệt và một chiến pháp quyết liệt, cấp kỳ, mà ba mươi năm sau nhìn lại, dân Việt chỉ có thể phê phán Quân ủy Trung ương và cả Bộ Tổng tham mưu đã hoàn toàn thụ động.

Khi quyết định khởi binh tiêu diệt quân Khmer, việc củng cố biên giới phía Bắc là bắt buộc. Cao Bằng với thành lũy, hầm ngầm của pháo đài cũ, trên nền địa thế hiểm trở vây bọc bởi hai sông Hiểm và sông Bằng Giang, đã có thể trở thành một ‘‘phá lam’’, tấm khiên làm gẫy mũi giáo phương Bắc. Hồng quân Trung Quốc có thể luồn qua Trà Lĩnh, Đông Khê, Thất Khê, nhưng các trục lộ chính vẫn bị Cao Bằng kiểm soát, và đường rừng không cho phép quân Hán vận tải vũ khí nặng. Giữ Cao Bằng bằng quân chủ lực, cùng những bãi mìn dầy đặc, Quân đội Nhân dân có thể làm chậm sức tiến của quân Hán xuống trục Cao Bằng - Bắc Cạn - Thái Nguyên, cho phép tập trung binh lực để giàn trận địa pháo giao tranh trực diện tại Lạng Sơn. Đối với mặt trận Lào Cai, lui về Sa Pa dựa vào địa thế miền núi để phòng thủ, rồi từ hai tỉnh lỵ Lai Châu và Hà Giang tấn công gọng kềm đánh xuyên qua Mường Khương và Bát Xát vào hai bên cạnh sườn quân Hán ở Hà Khẩu. Giữ diện, đánh điểm, đã có thể áp dụng ở biên giới.

Lý do: Lợi thế địa lý vô cùng thuận lợi. Không ngẫu nhiên tổ tiên dân Việt đã dựng biên giới trong khu vực này. Và không ngẫu nhiên mà các binh đoàn tác chiến Le Page [4] và Charton [5] với tám tiểu đoàn Lê dương, Nhảy dù, Tabors Bắc Phi, đã tan xác dưới những chân núi này.

Vào thời điểm 1979, Hồng quân Trung Quốc không có một sư đoàn nào kinh nghiệm chiến trận như Sư đoàn 308 Quân Tiên phong. Mà Quân ủy Trung ương đã có thể dàn trận nhiều mươi sư đoàn như vậy: Các sư đoàn lừng danh 302, 304, 312, 316, 320, 324, 325, 390 (320B) và 351 Công pháo. Những đại đơn vị thông thuộc địa hình biên giới, thượng du, trung du và đồng bằng Bắc-Việt. Chưa kể 10 sư đoàn của Mặt trận Giải phóng miền Nam đã chuyển biên chế, bên cạnh 3 sư đoàn phòng không 367, 375, 377, vận tải 411, công binh 334, bên cạnh các đại đoàn pháo binh 675, 349, bên cạnh các sư đoàn miền Nam tập kết cũ 330, 337, 338, 339, và các sư đoàn tân lập 311, 317, 318, 319, 327, 328, 329, 337, 341, 345, 346, 374, cùng các sư đoàn ngoại biên 711, 968 đóng tại Lào. Một cách khách quan, với tiềm năng triển khai trên dưới 40 sư đoàn chính quy ngang bằng vũ khí, với giàn tướng lãnh dầy dạn trận mạc Vương Thừa Vũ, Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái, Nguyễn Hữu An, Hoàng Cầm, Phùng Thế Tài, Nguyễn Đôn, Đồng Sĩ Nguyên, Đặng Vũ Hiệp, Phạm Ngọc Mậu... Quân đội Nhân dân đủ sức phạt Hán ngay trên tuyến Phong Thổ - Lào Cai - Hà Giang - Cao-Lạng.

Thực tế chiến trường diễn ra sau đó, với sức nặng của trận chiến gần như trên vai các tiểu đoàn địa phương và các trung đoàn độc lập của Tỉnh/Miền, là bằng chứng cho thấy chỉ với bộ đội địa phương, quân Việt Nam đã gây tổn thất lớn cho quân chính quy Trung Quốc.

Sự tham chiến của chủ lực quân Việt Nam, nếu đã diễn ra, trên tuyến biên giới, sẽ đem đến chiến quả lớn với tất cả thuận lợi về sau: Bài học của Đặng Tiểu Bình thất bại ngay ban đầu khi Bắc triều không đánh thủng được phòng tuyến Nam triều. Quân đội Việt Nam chứng minh với thế giới nền độc lập của dân tộc này bất khả xâm phạm. Hồng quân Trung Quốc thảm bại không thể xâm nhập vào đất Việt Nam, sẽ khiến Bắc Kinh phải nhìn lại đối sách ngoại giao với phương Nam. Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan, và các cột mốc biên giới sẽ ở nguyên vị trí từ hiệp ước Pháp-Thanh. Điểm quan trọng là chọn lựa này vẫn cho phép bình Tây, triệt phá quân Khmer, như thực tế đã diễn ra, khi Quân ủy cấp tốc rút các sư đoàn chính quy Bắc-Việt từ mặt trận Kampuchia trở về để cứu ứng Hà Nội lúc quân Tàu tràn sang, các sư đoàn cũ của Mặt trận Giải phóng miền Nam vẫn có thể chiếm đóng và đánh bật quân Miên sang đất Thái.

Tung chủ lực đánh ngay trên biên giới còn phá hủy ưu thế thời gian của Bắc Kinh. Nếu Đặng Tiểu Bình vẫn có thể rút quân tức khắc ngay khi gặp khó khăn, việc lui bình tức thì là một thú nhận thảm bại. Tiếp tục duy trì tiến công, cho dù gặp đề kháng mạnh, đồng nghĩa phải gánh lấy tổn thất cao giữa vùng núi non trùng điệp với nguy cơ lâm vào nguy khốn trước phản công cạnh sườn của quân Việt Nam. Yếu tố thời gian của trận chiến, như vậy, rời khỏi bàn tay của Đặng Tiểu Bình.

Có thể biện luận: Khi bỏ trống tuyến biên giới, lui về châu thổ sông Hồng, Bộ Tổng tham mưu đã chọn giải pháp truyền thống của tiền nhân. Hưng Đạo đại vương đã bỏ Lạng Sơn lui về Vạn Kiếp, bỏ Vạn Kiếp lui về Thăng Long, rồi bỏ Thăng Long lui về phủ Xuân Trường (Nam Định). Khi không chấp nhận đánh trên biên giới, vì phải dàn mỏng lực lượng theo chiều dài của biên giới mà nỗ lực chính của quân Hán chưa được xác định, bộ Tổng tham mưu đã hành xử đúng binh pháp: Tinh gọn, tập trung và định hướng. Lập luận này chỉ đúng một phần: Phần cần thời gian để xác quyết hướng tấn công chính của quân Tàu, cần bảo vệ thủ đô Hà Nội với vùng châu thổ đông dân, và cần không gian đồng bằng để đánh vận động chiến. Lập luận trên sẽ đúng — nếu — Quân ủy Trung ương xây dựng sẵn một khối cơ động dự bị hùng hậu, theo kế hoạch sắp sẵn, một khi quân Hán đã vào đủ sâu sẽ tổng phản công để hủy diệt.

Vẫn có thể biện luận: Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị tổng phản công thì Đặng Tiểu Bình lui quân. Lập luận như vậy là đã không tính đến yếu tố thời gian và có nghĩa quân đội Việt Nam đã không tước đoạt được ưu thế thời gian của Đặng Tiểu Bình. Trong lúc đánh ngay trên biên giới, làm giảm ưu thế này. Chấp nhận giao chiến vào sâu trong nội địa quốc gia, còn có nghĩa chấp nhận để quân Hán sát hại dân lành như đã xảy ra ở xã Đề Thám, xã Hưng Đạo ở huyện Hòa An thuộc tỉnh Cao Bằng. Chấp nhận cho quân Hán tàn phá ruộng vườn, nhà cửa, đô thị và hầm mỏ Việt Nam trong chiều sâu 50 cây số [6] . Với hy sinh lớn lao như vậy, chiến quả của một chọn lựa chiến lược phải tương xứng với sự hy sinh. Hủy diệt đại bộ phận các tập đoàn quân Hán đã vào sâu trong đất Việt phải là mục tiêu, ý chí, và quyết tâm của đảng ủy, quân ủy và quân đội — nếu chọn đánh ở đồng bằng.

Khó lượng định trước một cách chính xác hướng tấn công chính của quân Hán, vẫn có thể tiên đoán phần lớn nỗ lực sẽ diễn ra trong khu vực Lạng Sơn – An Châu – Bình Liêu – Tiên Yên. Vì Lạng Sơn là cửa ngõ của xâm lược, con đường xâm lăng truyền thống của phương Bắc. Chiếm Lạng Sơn, tiến về Lục Nam, Đặng Tiểu Bình uy hiếp tức khắc Hà Nội. Địa hình trống trải càng cho phép quân Hán tập trung đánh biển người, thực hiện Schwerpunkt, một trọng điểm làm vỡ mặt trận, như Clausewitz định nghĩa.

Với một Moltke [7] hay Schlieffen [8] hay Manstein [9] , có thể kế hoạch phản công sẽ phát xuất từ Thái Nguyên, triển khai với quân chủ lực để trở thành một lưỡi hái quét từ Tây sang Đông, từ Bắc Sơn xuyên qua Văn Quan, Cao Lộc, Lộc Bình, Đình Lập, xuống đến Quảng Hà, đẩy quân Hán vào chiếc rọ biển Đông. Với một Joukov [10] hay Eremenko [11] , chiến lược phản công có thể cũng sẽ không khác, như Joukov đã lui binh từ sông Donetz về sông Don, rồi từ sông Don về sông Volga, trước khi cắt Liên Lộ quân Caucase và áp Liên Lộ quân Nam Đức Quốc xã vào biển Hắc Hải trên mặt trận Nam Nga [12] .

Trong thực tế đã không có gì diễn ra như trong các giả thuyết kể trên.

Không dồn quân quyết chiến ở Tây Bắc biên giới, cũng không kịp bao vây ở Đông Bắc biên giới, Quân ủy Trung ương đã để quân Hán chủ động chiến trường. Có thể giải thích Trung ương chọn lui về thế thủ để chuẩn bị trường kỳ kháng chiến, hoặc hãy còn thận trọng phân tích tình hình, hay đợi các sư đoàn tân lập từ lệnh tổng động viên tăng cường sức mạnh cho các quân khu… Chọn lựa này không viên mãn, và không thỏa đáng, vì sẽ đẩy dân tộc vào một cuộc chiến dài lâu kiệt quệ khi yếu tố thời gian làm việc cho Trung Hoa. Và một khi trao quyền chủ động cho quân Hán, Quân ủy Trung ương đã mặc nhiên trao quyền tiến thối cho Đặng Tiểu Bình, tức quyền chấm dứt chiến trường.

Giai đoạn hai, các cuộc phản kích của quân đội Việt Nam bắt đầu liên tục, tuy mang tính chất địa phương, không tổng thể, và chưa quyết định. Trong suốt bốn tuần lễ, từ 17 tháng 2-1979 đến 16 tháng 3-1979, Quân ủy Trung ương đã không có một động thái chiến lược nào tầm cỡ. Chỉ có thể hiểu: bộ Tổng tham mưu đã không có sẵn một kế hoạch tổng phản công vì chưa tập trung kịp một khối cơ động mạnh. Thất bại chiến lược của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tham mưu là đã xem chiến trường Kampuchia là chính diện. Điều mà Molkte đã cảnh cáo: ‘‘Một khi đã bày binh bố trận, bất kỳ một lỗi lầm nào cũng không thể sửa chữa kịp về sau. Vì đối phương cùng chuyển quân, tất cả các chuyển hoán, thay đổi thế trận sẽ không còn bắt kịp được nữa thời gian đã lũy thừa. Trừ phi đối phương yên vị, nhưng điều này đồng nghĩa xin ở kẻ thù một ân huệ.’’ [13]

*

Ba mươi năm sau chiến tranh biên giới, vô cùng khó khăn tìm hiểu một giai đoạn khốc liệt, vì hồ sơ không bạch hóa. Chỉ có thể suy diễn, phỏng đoán. Với kho vũ khí hiện đại cùng đạn dược dồi dào của cả hai miền Nam-Bắc vừa chấm dứt nội chiến, với địa thế biên giới hiểm trở, với lòng ái quốc cao độ của một dân tộc mà lịch sử đồng nghĩa chống Tàu, với quân đội dày dạn chiến trận, ở vào thời điểm 1979 quốc gia có tất cả ưu thế để chiến thắng.

Nhưng cơ hội đánh mất.

Nhìn lại, bộ Tổng tham mưu có hai giải pháp phải chọn lựa: Tập trung quân quyết chiến trên biên giới hay tập trung quân hủy diệt Phương diện quân Quảng Châu ở đồng bằng. Nếu là giải pháp đầu, phải tung toàn lực lên biên giới. Nếu là giải pháp sau, phải lùi binh tránh tổn thất cùng chiêu dụ quân Hán vào sâu trong lãnh thổ; tuy với một Đặng Tiểu Bình vô cùng thận trọng, tiến chậm, chắc, và giới hạn thời gian chiến trận, giải pháp Đồng bằng ít khả thi.

Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tham mưu đã chọn một giải pháp nửa vời lưng chừng: Đánh trên biên giới nhưng không hết sức lực, không lui quân hẳn mà tăng viện từng đợt, cầm chừng. Sư đoàn 345 lên Lào Cai, 326 lên Phong Thổ, với hai sư đoàn 311 và 346 tăng phái cho mặt trận Cao Bằng, cùng hai sư đoàn 327 và 337, rồi về sau 338, 347 tăng cường cho sư đoàn 3 Sao Vàng tại mặt trận Lạng Sơn, đã không thay đổi được tình thế [14] . Cả 5 thị xã biên giới cùng 17 quận lỵ đều lần lượt thất thủ. Quân đội đã chịu tổn thất mà không đạt được chiến thắng quyết định. Chỉ có thể giải thích thất bại quân báo đã khiến bộ Tổng tham mưu phán đoán sai nên vận dụng 3 trên 4 quân đoàn tổng trừ bị cho mặt trận Kampuchia, duy nhất quân đoàn 1 bảo vệ vành đai Hà Nội. Phải đến ngày 25 tháng 2, quân đoàn 14 cùng bộ chỉ huy thống nhất đặc khu biên giới Lạng Sơn mới thành hình. Khi quân đoàn 2 và 3 trở về, hai tư lệnh Nam chinh Hứa Thế Hữu và Dương Đắc Chí lập tức lui binh. Sự hiện diện ngay từ đầu của hai quân đoàn chủ công này, ngay trên tuyến biên giới, đã có thể thay đổi cục diện.

Cơ hội đánh mất trên cả bình diện chính trị.

Với một quốc sách thật tâm hòa giải, không phân biệt, không đày ải, mà công nhận quyền công dân cho từng binh sĩ Cộng hòa vừa buông súng, chính phủ đương quyền đã có khả năng động viên một triệu quân nhân miền Nam vừa rả ngũ, gây lại đồng thuận dân tộc đã không thực hiện sau năm 75.

Trong từng người Việt, đất đai của tổ tiên đã luôn được xem thiêng liêng, khả năng cùng chống giặc là có thật, với tất cả kinh nghiệm tác chiến, không yểm, điều không, trực thăng vận, sửa chữa khí cụ Hoa Kỳ còn lại, mà tập thể quân nhân miền Nam có được trong suốt nội chiến dằng dặc. Sự hưởng ứng của những người lính miền Nam, vì tìm lại vị trí trong xã hội, sẽ kéo theo sự hưởng ứng đông đảo của gia đình binh sĩ, làm nên sức bật kháng Tàu mà Đặng Tiểu Bình phải suy nghĩ.



Vì sao Đặng Tiểu Bình phải suy nghĩ? Vì biết rõ tuy sở hữu tiềm năng triển khai 40 sư đoàn chính quy, Quân ủy Trung ương chỉ có thể giàn tối đa phân nửa phía Bắc, vì ¼ đã sang Kampuchia, và ¼ còn lại dùng trấn đóng canh chừng trong Nam. Trên chiến trường thật sự, duy nhất 11 sư đoàn Việt Nam tham chiến [15] , có nghĩa ¾ quân chính quy không hiện diện ở Bắc Việt, trong lúc 2 Phương diện quân Hán đã tung vào chiến trường tối thiểu 32 sư đoàn Giải Phóng quân Trung Quốc [16] . Quân ủy quên bài học thất bại của Hồ Quý Ly vì thiếu đồng thuận dân tộc, Đặng Tiểu Bình không quên. Thêm một triệu quân miền Nam, với nhân vật lực của miền Nam cùng sát cánh với miền Bắc, quốc gia đã có thể lập lại chiến thắng Đống Đa vang dội của Nguyễn Huệ hai trăm năm trước, đánh tan 20 vạn quân Thanh, khiến Đại Thanh quốc cho đến khi cáo chung chấm dứt mộng Nam chinh. Thời điểm 1978-1979 đã có thể là thời điểm của một vận hội mới.

Có thể các giả thuyết kể trên không cơ sở, khó đứng vững, khi tìm hiểu sâu xa các chi tiết quân sự. Điều chắc chắn, trận biên giới không đem đến thuận lợi cho Việt Nam. Hôm nay đứng trước quân Tàu đã hiện đại hóa khí cụ và chiến thuật, lấy kinh nghiệm từ bài học đẫm máu, người lính Việt Nam nghĩ gì? Bên ngoài quân đội, dân chúng nhìn thấy rất rõ: Lòng yêu nước vẫn còn đó, nhưng quân đội này dường như ngủ quên sau thập niên 70. Thực trạng tụt hậu kỹ thuật, vũ khí, phương pháp và cả trình độ khoa học quá hiển nhiên khi thế giới bước vào thế kỷ 21 mà quân đội hãy còn giữ trang bị của thời kỳ nội chiến. Nửa thế kỷ vật chất khó khăn, khiến tập thể quân nhân chịu ám ảnh kinh tế nhiều hơn quân sự, các tướng lãnh hùm xám đã chết, lớp sĩ quan trưởng thành trong khói lửa đã về hưu, gần như hiện nay là một đạo quân thuần tân binh. Bên cạnh bất lực biển cả, quân đội còn mang những chứng bệnh bất lực nào khác nữa?

Đã đến lúc tập thể quân nhân cần yêu sách giới chức chính trị canh tân tức khắc đất nước. Vì quốc gia khó trông cậy vào phường tuồng Liên Hiệp Quốc, như các tiểu quốc Lituanie, Lettonie, Ettonie đã không thể trông cậy vào Hội Quốc Liên khi Hồng quân Sô Viết nhất quyết sát nhập. Quân đội không thể quên bài học Munich, khi liên quân Anh-Pháp ký văn kiện nhượng Tiệp Khắc cho Adolf Hitler, không thể quên cái chết của nền Cộng hòa Pháp và lá thư khẩn thiết của chủ tịch hội đồng các bộ trưởng Paul Reynaud [17] van xin Hoa Kỳ gửi máy bay và quân cụ chống các xa đoàn thiết giáp của lục quân Wehrmacht, trước sự dửng dưng của Franklin Roosevelt. Paul Reynaud từ nhiệm và thống chế Pétain quyết định đầu hàng sau khi nhận thư hòa nhã từ chối của tổng thống Hoa Kỳ không thể cứu các nền dân chủ Âu châu. Hoa Kỳ chỉ động binh một khi lãnh thổ thực sự của họ bị Nhật Bản xâm phạm. Tập thể quân nhân cũng không thể quên quân đội Nhật Bản từ kiếm sắt, thuyền buồm đến thủy lôi, thiết giáp hạm, hiện đại hóa trong vòng 25 năm.

Các nước Đông Nam Á trong vùng đang tận lực võ trang. Ngày mai, nếu Thái Lan khẳng định đảo Phú Quốc thuộc về vương quốc Thái vì nằm sâu trong vịnh Xiêm La, gần biên giới Thái hơn biên giới Việt, và Mã Lai khẳng định Côn Đảo thuộc về Mã Lai vì gốc Poulo Condo mang âm tự Mã, quân đội sẽ phản ứng cách nào, khi mắc bệnh bất lực biển cả ? Phát ngôn viên Lê Dũng sẽ tuyên bố Việt Nam có đầy đủ bằng chứng về chủ quyền Phú Quốc và Côn Đảo, rồi thế giới sẽ ‘‘quan ngại’’. Quan ngại, một thuật ngữ ngoại giao đồng nghĩa Không động đậy.

Canh tân là con đường duy nhất giúp giành lại Hoàng Sa và Trường Sa. Canh tân đất nước để có thể canh tân quân đội. Tiếng nói của tổ quốc trên bàn đàm phán sẽ mạnh mẽ với một quân đội hùng cường. Không còn con đường nào khác.

Dân Việt muốn quân đội Việt Nam ngẩng cao đầu trong thế kỷ 21.

Trần Vũ
20 tháng 3–2009
© 2009 talawas

-------------------
[1] Sun Tzu, L’Art de la guerre, tổng hợp của sir Basil H. Liddell Hart và Samuel B. Griffith, bản dịch Pháp văn của Francis Wang, Nxb Flammarion, Collection Champs Essai, 2008.

[2] Carl von Clausewitz, Vom Kriege, bản dịch Pháp văn De la guerre của Denise Naville, Nxb Editions de Minuit tái bản 1992. Có rất nhiều bản dịch Clausewitz sang Pháp văn, bản dịch của Denise Naville là bản dịch mà đại tướng Võ Nguyên Giáp trong hồi ký Chiến đấu trong vòng vây cho biết đem theo lúc rời Hà Nội khi toàn quốc kháng chiến (trang 105 trong bản dịch Pháp văn Mémoires 1946-1954: La résistance encerclée, Nxb Anako, 2003). T. Derbent trong nghiên cứu Giáp và Clausewitz tin có sự nhầm lẫn vì bản dịch của Denise Naville in lần đầu 1955.

[3] T. Derbent, Giáp et Clausewitz, Nxb Aden, 2006. Theo T. Derbent, Đại tướng Võ Nguyên Giáp xem Clausewitz là mẫu mực và lý thuyết gia của chiến tranh nhân dân.

[4] Marcel Le Page, Cao Bang, La tragique épopée de la colonne Le Page, Nxb Nouvelles Editions Latines, 1981. Trung tá Le Page, tư lệnh Chiến đoàn Tabor (Groupement des Tabors Marocains G.T.M) bao gồm các tiểu đoàn sơn cước Ma-rốc: 1er Tabor, 3ème Tabor, 8ème Tabor, 10ème Tabor, 11ème Tabor. Tháng 9-1950, tân cải thành Chiến đoàn Bayard với các tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 8 Tán Binh Ma-rốc (I/8 RTM) và 1, 10, 11 Tabor, tăng cường tiểu đoàn 1 Nhảy dù Lê dương (1er BEP) và trung đội pháo binh 105 ly. Tháng 10-1950 tăng cường tiểu đoàn 3 Săn Giặc Biệt Cách Dù (3ème BCCP). Tất cả bị bắt trong chiến dịch Đường Biên giới. Các đơn vị cũ của G.T.M: Tiểu đoàn 3 Tabor thuyên chuyển lên Cao Bằng trước khi triệt thoái, tiểu đoàn 8 Tabor hồi hương, tiểu đoàn 10 Tabor giữ Lạng Sơn rồi di tản về Hải Dương.

[5] Pierre Charton, RC4, La tragédie de Cao Bang, Nxb Editions Albatros, 1975. Trung tá Charton, tư lệnh phó Trung đoàn 3 Lê Dương (3ème REI), quân trấn trưởng Cao Bằng, tư lệnh Chiến đoàn Charton bao gồm các tiểu đoàn 3 Lê Dương (III/3 REI), tiểu đoàn 3 sơn cước Ma-rốc (3ème Tabor), tiểu đoàn phụ lực quân nhẹ (Bataillon Léger de Supplétifs Militaires B.L.S.M) và pháo đội 105 ly. Tất cả bị bắt trong chiến dịch Đường Biên giới.

[6] Theo thống kê của chính phủ Việt Nam, Hồng quân Trung Quốc tàn phá ở 6 tỉnh biên giới:
- Số thị xã bị huỷ diệt : 4/4
- Số xã bị phá huỷ : 320/320
- Diện tích nhà bị tàn phá ở các thị xã : 600.000 m2
- Số trường phổ thông các cấp bị phá : 735/904
- Số bệnh viện, bệnh xá bị phá huỷ : 428/430
- Số nông trường bị tàn phá và cướp bóc : 41/41
- Số lâm trường bị phá hoại : 38/42
- Số xí nghiệp, hầm mỏ bị phá và cướp đi : 81
- Số trâu bò, lợn bị giết và bị cướp : 400.000 con
- Diện tích hoa màu bị phá huỷ : 80.000 ha
Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân ở 6 tỉnh biên giới bị mất nhà cửa, tài sản, và phương tiện sinh sống.

[7] Helmuth Karl Bernhard von Moltke, Mémoires du maréchal, bản dịch Pháp văn của E. Jaeglé, Nxb Librairie H. Le Soudier, 1892. Thống chế Moltke (1800-1891), tổng tư lệnh lục quân Phổ nhận đầu hàng của hoàng đế Napoléon đệ tam tại mặt trận Sedan trong chiến tranh Pháp-Đức 1870, tiếp nối công trình nghiên cứu của Clausewitz trong nhiều tác phẩm bàn về chiến lược. Cần tránh nhầm lẫn với đại tướng Helmuth Johannes Ludwig von Moltke (1848-1916), còn gọi Moltke junior, tổng tham mưu trưởng lục quân Phổ khi khởi đầu đệ nhất thế chiến 1914-1918.

[8] Xem phân tích Graf Schlieffen und der Weltkrieg, Wolfgang Foerster, bản dịch Pháp văn Le comte Schlieffen et la guerre mondiale: La stratégie allemande pendant la guerre de 1914-1918 của thiếu tá L. Koeltz, Nxb Payot, 1929. Tử tước Alfred Graf von Schlieffen, tổng tham mưu trưởng lục quân Phổ từ 1891 đến 1906, xây dựng kế hoạch đánh xuyên qua Bỉ để tiêu diệt các liên lộ quân Pháp. Schlieffen thừa hưởng tinh thần tấn công vây ép của Moltke.

[9] Erich von Manstein, Verlorene Siege, bản dịch Pháp văn Victoires perdues của René Jouan, Nxb Plon, 1958. Được xem chiến lược gia kỳ tài của lục quân Wehrmacht, xây dựng kế hoạch đánh xuyên qua Ardennes tiêu diệt các liên lộ quân Anh, Pháp, Bỉ vào tháng 5–1940. Manstein nhận phẩm hàm thống chế tháng 5–1942 sau khi triệt phá pháo đài Sébastopol vây bắt 90.000 quân Sô Viết. Tư lệnh chiến trường Nam Nga, chịu ảnh hưởng của Moltke, Manstein chủ trương phòng thủ di động và tấn công phản hồi (vu hồi/attaque en retour), đối đầu với Joukov, Tchouikov, Eremenko, Rokossovski.

[10] Gueorgui Konstantinovitch Joukov, Mémoires, De Stalingrad à Berlin 1942–1946, bản dịch Pháp văn của S. Obolensky, Nxb Fayard, 1970. Bản dịch Việt ngữ Nhớ lại và suy nghĩ, Nxb QĐND, 2002. Tham mưu trưởng Hồng quân Sô Viết, Joukov xây dựng tổng phản công mùa đông 1941 và tổng phản công sông Volga mùa đông 1942.

[11] André Ivanovitch Eremenko, Stalingrad, notes du commandant en chef, bản dịch Pháp văn của Serge Maximov, Nxb Plon, 1963. Tư lệnh phương diện quân Mạc Tư Khoa rồi tư lệnh phương diện quân Stalingrad, Eremenko chỉ huy tấn công vào cạnh sườn đệ lục lộ quân của Von Paulus.

[12] Paul Carell, Verbrannte Erde, bản dịch Pháp văn Opération Terre Brûlée, De la Volga à la Vistule, Décembre 1942–Août 1944 của Raymond C. Albeck, Nxb Robert Laffont, 1968. Phần đầu của chiến tranh Nga–Đức trong tập 1 Unternehmen Barbarossa của Paul Carell đã được Người Sông Kiên và Lê Thị Duyên dịch sang Việt ngữ dưới tựa Hitler và mặt trận miền Đông, Nxb Sông Kiên Sàigòn, 1973.

[13] Helmuth Karl Bernhard von Moltke, Sđd.
[14] vi.wikipedia.org, thư mục Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979. Trích dẫn:
‘‘Giai đoạn 2 bắt đầu từ ngày 27 tháng 2. Chiến sự tập trung tại Lạng Sơn tuy giao tranh tại Lào Cai, Cao Bằng, và Móng Cái vẫn tiếp diễn. Trận đánh chiếm thị xã Lạng Sơn bắt đầu lúc 6 giờ sáng cùng ngày. Trung Quốc điều tới đây thêm 2 sư đoàn từ Đồng Đăng và Lộc Bình (phía Đông Nam Lạng Sơn), tiếp tục đưa thêm quân mới từ Trung Quốc thâm nhập Việt Nam để tăng viện. Tại Lạng Sơn, các Sư đoàn 3, 337, của Việt Nam đã tổ chức phòng thủ chu đáo và phản ứng mãnh liệt trước các đợt tấn công lớn của quân Trung Quốc. Từ ngày 2 tháng 3, sư đoàn 337 trụ tại khu vực cầu Khánh Khê. Sư đoàn 3 chống trả ba sư đoàn bộ binh 160, 161, 129, cùng nhiều tăng, pháo, tiến công trên một chiều dài 20 km từ xã Hồng Phong huyện Văn Lãng đến xã Cao Lâu huyện Cao Lộc. Suốt ngày 27, ở hướng Cao Lộc, sư đoàn 129 Trung Quốc không phá nổi trận địa phòng thủ của trung đoàn 141; ở hướng đường 1B, sư đoàn 161 bị trung đoàn 12 ghìm chân; ở hướng đường 1A, trung đoàn 2 vừa chặn đánh sư đoàn 160 từ phía Bắc vừa chống lại cánh quân vu hồi của sư đoàn 161 từ hướng Tây Bắc thọc sang. Nhưng 14 giờ ngày hôm đó, một tiểu đoàn Trung Quốc bí mật luồn qua phía sau bất ngờ đánh chiếm điểm cao 800, nơi đặt đài quan sát pháo binh của sư đoàn 3 Sao Vàng. Mất điểm cao 800, thế trận phòng ngự của Việt Nam ở phía tây đường 1A từ Cốc Chủ đến điểm cao 417 bị chọc thủng. Chiếm được điểm cao 800 và Tam Lung, nhưng trong suốt các ngày từ 28 tháng 2 đến 2 tháng 3, quân Trung Quốc vẫn không vượt qua được đoạn đường 4 km để vào thị xã Lạng Sơn, tuy đã dùng cho hướng tiến công này gần năm sư đoàn bộ binh. Sau nhiều trận đánh đẫm máu giành giật các điểm cao quanh Lạng Sơn, mà có trận quân phòng thủ Việt Nam đánh đến viên đạn cuối cùng, quân Trung Quốc bắt đầu bao vây thị xã Lạng Sơn ngày 2 tháng 3 sử dụng thêm sư đoàn 162 dự bị chiến dịch của quân đoàn 54 và dùng 6 sư đoàn tấn công đồng loạt trên nhiều hướng. Chiều ngày 4, một cánh quân Trung Quốc đã vượt sông Kỳ Cùng, chiếm điểm cao 340 và vào tới thị xã Lạng Sơn, một cánh quân khác của sư đoàn 128 Trung Quốc cũng chiếm sân bay Mai Pha, điểm cao 391 ở phía tây nam thị xã. Đến đây, phía Việt Nam đã điều các sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo binh, không quân hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải phóng các khu vực bị chiếm đóng. Quân đoàn 14 với các sư đoàn 337, 327, 338 hầu như còn nguyên vẹn đang bố trí quân quanh thị xã Lạng Sơn. Quân đoàn 2, chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã tập kết sau lưng Quân đoàn 14.’’

[15] vi.Wikipedia.org. Trích dẫn:
‘‘Phía VN, Các đơn vị tham chiến gồm có các đơn vị thuộc Quân khu 1 và các đơn vị yểm trợ, gồm 11 sư đoàn và 9 trung đoàn biệt lập, chia làm hai tuyến phòng thủ, tổng số 100.000 quân.
Tuyến 1: sư đoàn 325B, sư đoàn 338, sư đoàn 3 Sao Vàng, sư đoàn 374, sư đoàn 304, sư đoàn 346, và các trung Đoàn 43, 576, 244, 49 biệt lập. Các sư đoàn 325B, 304, 3 chịu trách nhiệm hướng Đông và Đông Bắc Lạng Sơn.
Tuyến 2: sư đoàn 312, sư đoàn 431, sư đoàn 327, sư đoàn 329, sư đoàn 242, và các trung đoàn 196, 38, 98 biệt lập.’’

[16] Đại tướng Hứa Thế Hữu, tư lệnh phương diện quân Quảng Châu, trách nhiệm hường Lạng Sơn – Cao Bằng, với các quân đoàn 41, 42, 43, 50, 54, 55. Đại Tướng Dương Đắc Chí tư lệnh Phương diện quân Vân Nam, trách nhiệm hướng Lai châu – Lào Cai, với các quân đoàn 11, 13, 14, 20.
Quân đoàn 11: sư đoàn 31, 32, 33.
Quân đoàn 13: sư đoàn 37, 38, 39.
Quân đoàn 14: sư đoàn 40, 41, 42.
Quân đoàn 20: sư đoàn 58.
Quân đoàn 41: sư đoàn 121, 122, 123.
Quân đoàn 42: sư đoàn 124, 125, 126.
Quân đoàn 43: sư đoàn 127, 128, 129.
Quân đoàn 50: sư đoàn 148, 149, 150.
Quân đoàn 54: sư đoàn 160, 161, 162.
Quân đoàn 55: sư đoàn 163, 164, 165.
Tổng kết 28 sư đoàn chính quy, cộng thêm các lực lượng thiết giáp, pháo binh, phòng không, công binh tương đương với 4 sư đoàn. Nếu biên chế một quân đoàn 50.000 quân, một sư đoàn 12.900 quân, tổng số quân Trung Quốc từ 350.000 đến 500.000. (nguồn vi.Wikipedia.org)

[17] Thư thủ tướng Pháp Paul Reynaud gửi tổng thống Franklin Roosevelt trích dẫn trong các nghiên cứu của William L. Shirer, La chute de la troisième République, Nxb Editions Stock, 1970 và Benoist Méchin, Soixante jours qui ébranlèrent l’Occident, tập 3 La fin du régime, Nxb Editions Albin Michel, 1956. Cái chết của nền đệ tam Cộng–Hòa Pháp trùng lập với cái chết của nền đệ nhị Cộng–Hòa Nam–Việt. Sụp đổ dây chuyền sau 5 tuần lễ giao tranh, 2 triệu tù binh Pháp, đồng minh Anh tháo chạy, quốc hội Hoa Kỳ biểu quyết cấm can thiệp. Chính phủ « trung lập » Pétain ra đời.

Nguồn: talawas chủ nhật
Category: Lịch sử VN | Views: 4387 | Added by: danchu | Rating: 0.0/0
Total comments: 0
Only registered users can add comments.
[ Registration | Login ]
Login form
Search
Our poll
Đánh giá
Total of answers: 887
Site friends
Statistics

Đang online: 542
Khách: 542
Thành Viên: 0