Quyền
tiếp cận thông tin của người dân sẽ được luật hóa trong một dự luật mà
theo dự kiến sẽ được trình lên Quốc hội vào cuối năm nay. Đây là lần
đầu tiên ở Việt Nam có một luật về các quyền được hiến định. Giới luật
sư nghĩ như thế nào về dự luật tiếp cận thông tin ? Phỏng vấn luật sư
Bùi Quang Nghiêm từ Sài Gòn.
Hiến pháp 1992 của Việt Nam có ghi rõ là người
dân được bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông
tin. Các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng thường hay nhắc đến chủ trương gọi
là ''dân biết, dân bàn, dân kiểm tra''.
Nhưng trên thực
tế, những quyền nói trên, đặc biệt là quyền được tiếp cận thông tin,
hầu như không bao giờ được tôn trọng. Trong khi đó, ai cũng thấy rõ là
việc bưng bít thông tin là một trong những nguyên nhân chính của nạn
lạm quyền, tham nhũng ở Việt Nam.
Nay, quyền tiếp cận thông tin
của người dân sẽ được luật hóa trong một dự luật hiện đang được Bộ Tư
pháp chủ trì soạn thảo và theo dự kiến sẽ được trình lên Quốc hội vào
cuối năm nay và sẽ được thông qua vào năm tới.
Hiện nay, dự
luật này đang trong giai đoạn thảo luận giữa các đại diện chính quyền
với nhà chuyên môn. Việc soạn thảo Luật tiếp cận thông tin cũng được sự
hỗ trợ của quốc tế, nhất là của Na Uy.
Thật ra, Việt Nam đã
buộc phải soạn thảo dự luật về tự do thông tin chính là do áp lực từ
các điều ước, điều khoản quốc tế mà Hà Nội đã ký kết. Những hiệp ước
này đòi hỏi Việt Nam phải có sự minh bạch thông tin, nhất là trong hoạt
động tài chính. Có thể nói đây là lần đầu tiên mà ở Việt Nam có một
luật về các quyền được hiến định. Nói cách khác, đây chính là bước đầu
để luật hóa quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam.
Trong một bài viết đề ngày 17/3 đăng trên trang Web của tờ Tia Sáng, giáo sư Phạm Duy Nghĩa cho rằng, ''
một bộ luật bảo đảm cho quyền tự do thông tin của người dân nếu được
ban hành sẽ giúp báo giới tự tin hơn khi khai thác quyền được thông
tin, quyền được nói của người dân. Có biết, có dám tranh luận, rồi một
ngày người dân mới học cách tập hợp lực lượng để phản biện lại các
chính sách của chính quyền khi cần thiết. »
Nhưng quyền tiếp
cận thông tin cũng gắn chặt với quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
bởi vì chính báo chí là kênh thông tin chủ yếu đến người dân. Cho tới
nay, ở Việt Nam, việc tiếp cận thông tin của phóng viên cũng rất khó
khăn, nhất là những thông tin bị coi là nhạy cảm. Ấy là chưa kể việc
nhiều cơ quan Nhà nước vì sợ báo chí khai thác thông tin nên đóng dấu
mật vô tội vạ trên các tài liệu, các văn bản.
Về mối tương quan giữa Luật tiếp cận thông tin với Luật báo chí, giáo sư Phạm Duy Nghĩa nhận định là « dựa
trên luật về tự do thông tin, báo chí từ vị trí thụ động, phát ngôn cho
các cơ quan Đảng và cơ quan hành chính, sẽ chuyển sang vị thế chủ động
hơn, truy đuổi các thông tin mà theo lẽ cơ quan Nhà nước phải công bố ».
Nói cách khác, theo giáo sư Nghĩa, ''ban hành luật về tự do thông tin sẽ là một cú hích để tu chỉnh luật báo chí Việt Nam''.
Nhưng, theo ông, nếu như luật về tự do thông tin được ví như một bầu
nước, thì Pháp luật về bí mật Nhà nước năm 2000 lại chính là cái nút
thắt chặt lấy bầu nước ấy.
Giáo sư Nghĩa nhắc lại những vụ đáng
phải thảo luận thêm vụ phóng viên Lan Anh của tờ Tuổi Trẻ trước đây đã
bị khởi tố liên quan đến một tài liệu được coi là bí mật của Bộ Y tế.
Cũng theo giáo sư Phạm Duy Nghĩa, ''nếu
đưa tin về vụ khai thác bauxit Tây Nguyên, báo chí có thể bị xem là vi
phạm những thông tin được xem là tuyệt mật liên quan đến chủ trương của
Đảng và Nhà nước về khai thác khoáng sản''. Cho nên, ông đề nghị là
phải sửa đổi luôn Pháp lệnh về bí mật Nhà nước, nhất là phải xác định
rõ nội dung nào được xem là bí mật.
Về điểm này, trong bài trả
lời phỏng vấn với tờ báo điện tử VietnamNet ngày 24/2 vừa qua, Bí thư
thứ nhất đại sứ quán Na Uy tại Hà Nội, bà Snofrid Emterud, đã nhấn mạnh
rằng : những quyết định liên quan đến đại cục chung không thể được coi
là bí mật. Theo bà, mọi người phải được tạo cơ hội tìm hiểu và phản
biện các quyết định chính trị.
Trong bài viết đăng trên tờ Lao Động cuối tuần ngày 8/2, tiến sĩ Nguyễn Quang A, đã viết : ''Nhà
nước là “của dân, do dân và vì dân” nên công dân phải được thông tin
trung thực kịp thời về hoạt động, chính sách, chủ trương của các cơ
quan nhà nước, của các cơ quan “của mình”, “vì mình”. Đấy là quyền của
công dân, họ có quyền đòi hỏi (chứ không phải xin) cơ quan nhà nước
cung cấp thông tin và các cơ quan nhà nước phải có nghĩa vụ cung cấp
(chứ không phải ban phát). Đấy là nguyên tắc''.
Trong số các
đề nghị của tiến sĩ Nguyễn Quang A, có việc đề ra những thủ tục rõ ràng
để ngặn chặn tình trạng các quan chức và cơ quan Nhà nước lạm dụng các
lý do '' an ninh quốc gia'' hay ''bí mật quốc gia''
Theo tiến sĩ Nguyễn Quang A, "
có quy định rõ ràng thì việc thực thi mới nghiêm túc và người dân mới
có thể giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và quan chức nhà
nước một cách hữu hiệu. Phải buộc các quan chức và viên chức nhà nước,
cả ở trung ương lẫn địa phương, chỉ được làm những việc mà pháp luật
cho phép, đồng thời giáo dục công dân rằng họ có quyền làm bất cứ thứ
gì mà pháp luật không cấm ''.
Về phía giới luật sư thì họ nghĩ như thế nào về dự luật tiếp cận thông tin? Nhận xét của luật sư Bùi Quang Nghiêm từ Sài Gòn.
Phỏng vấn luật sư Bùi Quang Nghiêm-Saigon