Tướng Võ Nguyên Giáp và bà Nguyễn Thị Bình cũng bằn trong quỹ đạo “diễn biến hoà bình”?
Phạm Trần
Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Thị Bình
Chuyện nhiều đảng viên Cộng sản Việt Nam bây giờ “tự diễn biến” hay “tự
chuyển hóa” không phải là điều mới lạ gì mà tình trạng này đã có từ sau
khi các chính phủ Cộng sản ở Đông Âu và Liên bang Xô Viết bị tan rã từ
1989 đến 1992.
Nhưng chuyện cũ vẫn còn được nhắc lại sau hơn 20 năm “Đổi mới” để làm
“kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” là chỉ dấu cho
thấy đảng CSVN không còn nguyên một khối thống nhất toàn vẹn như đảng
tuyên truyền.
Một trong những nguyên nhân khiến nhiều đảng viên, kể cả một số đảng
viên kỳ cựu có chức cao hay đã nghĩ hưu không còn muốn gắn bó với đảng
vì thiểu số lãnh đạo bảo thủ vẫn tiếp tục xây dựng đất nước dựa trên
nền tảng chủ nghĩa Cộng sản Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh lỗi thời.
Hiển nhiên là hành động phản khoa học và chậm tiến này đã kìm hãm cả
dân tộc không thể tiến lên ngang tầm thời đại với các dân tộc trong khu
vực, nói chi với các nước văn minh phương Tây ?
Tuy nhiên, đội ngũ làm công tác tư tưởng trong đảng do Ban Tuyên giáo
Trung ương cầm đầu lại không nhìn thấy đảng chính là nguyên nhân khiến
mọi người muốn xa lánh nên đổ lỗi cho điều gọi là “diễn biến hoà bình”
của các thế lực thù địch đã gây ra tình trạng suy thóai tư tưởng của
đảng viên.
Phan Xuân Biên phản ảnh sự việc này trên Tạp chí Tuyên Giáo ngày
10-4-2009: “Từ Đại hội X (2006) của Đảng đến nay, tình hình đất nước
diễn biến khá phức tạp trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, phần
nào tác động đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân
dân. Bên cạnh dòng tư tưởng chủ đạo là ý thức độc lập dân tộc cao, ý
chí tự lực tự cường, kiên trì xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, văn
minh theo định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
tình hình đang tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn, tạo ra những thách thức,
nguy cơ về an ninh tư tưởng. Hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế
lực thù địch ngày càng quyết liệt về cường độ; toàn diện về nội dung;
đa dạng về phương pháp, hình thức, rộng rãi về lực lượng, thường xuyên
về thời gian và ngày càng công khai, tinh vi”.
Nhưng “công khai” và “tinh vi’ như thế nào thì ông giải thích: “Chúng
lợi dụng triệt để bối cảnh quốc tế và trong nước, nhất là tình hình xã
hội như tranh chấp, khiếu kiện, đình công; quan liêu, tham nhũng, lãng
phí; những vấn đề lịch sử, dân tộc, tôn giáo, tự do, dân chủ, nhân
quyền và bằng mọi ngả đường để thực hiện âm mưu nhất quán là nhằm xóa
bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta - chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đi đến làm suy yếu và thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ
chế độ XHCN, đưa nước ta theo con đường TBCN (Tư bản Chủ nghĩa). Dù
chưa đạt được âm mưu cuối cùng nhưng các hoạt động “diễn biến hoà bình”
kết hợp với nhiều yếu tố khách quan và chủ quan đã tác động đến tư
tưởng của một số cán bộ đảng viên, tạo nên sự tự diễn biến “tự chuyển
hóa” trong nội bộ Đảng và xã hội với xu hướng ngày càng phức tạp”.
Tại Hội nghị 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 5 đến 14/1/2009,
Nông Đức Mạnh, Tổng Bí Thư đảng đã ra lênh toàn đảng phải: “Tăng cường
công tác bảo vệ Đảng và bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, kết hợp với
chống âm mưu "diễn biến hoà bình" và xử lý biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hoá". Tiếp tục xây dựng lực lượng công an nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc, với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa, tận tuỵ phục vụ
nhân dân”.
Tuy nhiên tình trạng này nghiêm trọng ra sao thì không thấy ông Mạnh đề cập. Riêng Phan Xuân Biên đã nhìn nhận có: “Một
bộ phận suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng cách mạng.
Đây là kết quả của sự “tự diễn biến” dưới sự tác động của nhiều yếu tố
khác nhau, là nguy cơ lớn, là hiểm hoạ về an ninh tư tưởng”.
Ông Biên giải thích và báo động thêm: “Phai nhạt lý tưởng tức
là phai nhạt chủ nghĩa, phai nhạt mục đích hành động, giảm sút và triệt
tiêu động lực tạo nên sức mạnh, ý chí chiến đấu. Niềm tin cộng sản bị
thử thách nghiêm trọng và ở một bộ phận không nhỏ đã bị lung lay, phai
nhạt. Đại bộ phận chưa hiểu được CNXH là gì, con đường đi lên CNXH ở
nước ta ra sao. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH được Đại hội VII thông qua nêu ra 6 nội dung (hay đặc trưng) của
CNXH ở nước ta, rồi Đại hội X của Đảng nêu ra 8 đặc trưng, nhưng không
phải ai cũng hiểu, cũng thẩm thấu đến nơi đến chốn”.
Cương lĩnh mà ông Biên đề cập đến là Tài liệu viết năm 1991 có tiêu đề “Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
Điều đầu tiên đảng CSVN muốn xác quyết là phải “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, và khẳng định rằng “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Cương lĩnh 1991 cũng kiên quyết: “Đảng Cộng sản Việt Nam là
đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc
tổ chức cơ bản”.
Tuy nhiên không phải đảng viên nào cũng đồng tình ủng hộ lập trường bảo
thủ của Cương lĩnh 1991. Phan Xuân Biên phản ảnh tình trạng chuyển
hướng này như sau:
“Một bộ phận không nhỏ, bên ngoài vẫn nói về CNXH, nhưng trong suy nghĩ
thực hầu như không tin, nhiều lúc còn gắn với những chuyện hài hước. Tệ
hại hơn có người ngại nói về CNXH, sợ cho là không cấp tiến, chậm đổi
mới. Chính vì vậy, đã xuất hiện những dấu hiệu “tự chuyển hóa”, tuy
chưa công khai từ bỏ CNXH, nhưng cho rằng CNXH là mục tiêu cao cả,
nhưng xa xôi, trước mắt chỉ lo phấn đấu dân giàu, nước mạnh, xã hội văn
minh là đủ. Thực ra là đã “tự diễn biến”, đã buông vũ khí, tạo nên
những khoảng trống những lỗ hổng trên trận địa an ninh tư tưởng. Một số
đã thực sự “diễn biến”, “chuyển hóa” với danh nghĩa “đổi mới triệt để”,
“đổi mới kinh tế phải song song “đổi mới chính trị”, phê phán và bác bỏ
nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, đòi “đa nguyên”, “đa
đảng”, “ly thân”, “chia tay ý thức hệ”, sám hối, đi “tìm cái tôi đã
mất”, từ bỏ CNXH, ca ngợi Chủ nghĩa Tư bản”.
Lung lay – đòi xét lại
Phan Xuân Biên còn đi xa hơn: “Từ sự lung lay ý chí, suy
thoái về tư tưởng đã xuất hiện nhiều hành động, từ phát ngôn đến việc
làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương và pháp luật Nhà
nước. Thậm chí có những hành động mang tính chống đối với giọng điệu
không khác mấy quan điểm của những phần tử cơ hội, phản động đang mơ
tưởng xây dựng tổ chức chính trị đối lập cũng đã xuất hiện trong nội bộ.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước, nhất là
trên mạng internet đã xuất hiện những bài viết, trả lời phỏng vấn thể
hiện sự “tự diễn biến” về tư tưởng, công khai xét lại chủ nghĩa
Mác-Lênin, hùa với những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch
tạo nên những bi quan, hoang mang nghi vấn trong tư tưởng của cán bộ,
đảng viên, gây chia rẽ nội bộ làm yếu sức đề kháng, tạo cơ sở cho sự
xâm nhập dễ dàng của chiến lược “diễn biến hoà bình” dẫn đến lây lan sự
diễn biến “tự chuyển hóa” ngày càng gia tăng. Hoà cùng với điều đó, báo
chí vô tình hay hữu ý đã không ngừng dựng lên những bức tranh ảm đạm về
mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa. . . rồi bình luận lập lờ vòng
vo hoặc suy diễn trực tiếp quy nguyên nhân về phía chủ trương quản lý
của Nhà nước, làm giảm lòng tin của dân chúng đối với Đảng, Nhà nước,
với con đường chúng ta đang đi. . .”
Nghi ngờ mọi người
Trước nguy cơ bị xâm nhập văn hóa từ bên ngoài, cán bộ Tuyên giáo Phan
Xuân Biên cảnh giác đảng viên phải đề phòng cả những chương trình trao
đổi văn hóa, hoa học, kỹ thuật và hợp tác với các tổ chức và các nhà
khoa học nước ngoài.
Ông Biên viết nước đôi: “Mũi diễn biến êm ái hơn, “hoà bình”
hơn được thể hiện trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, giáo dục
đào tạo, văn học nghệ thuật. . . bởi vì mũi tấn công xâm nhập của chiến
lược “diễn biến hoà bình” trên những lĩnh vực này dường như là “vô tư”
và thực tiễn những lĩnh vực này đang có nhiều bức xúc, có nhu cầu hợp
tác quốc tế”
“. . .Không nên đánh giá mọi cơ quan tài trợ, cơ quan đào tạo giáo dục,
trao đổi văn hóa khoa học cũng như người được đào tạo ở các nước phương
Tây đều có ý đồ xấu. Nhưng cũng cần luôn lưu ý đây là một môi trường
rất thuận lợi, là cầu nối để các thế lực phản động lợi dụng thực thi
mưu đồ lâu dài cho việc chống phá hệ tư tưởng của chúng ta bằng các
hình thức thích hợp “thay chất đổi mầu” từ từ. Thực tế, con đường ấy đã
được các thế lực thù địch thực hiện phục vụ cho âm mưu “diễn biến hoà
bình” đã có những kết quả không nhỏ mà sự biểu hiện của nó được đan
xen, hoà quyện vào các hiện tượng của tình hình tư tưởng, chính trị và
đời sống xã hội của nước ta…”
“…. Tất cả những điều đó cùng với những yếu kém, những bức xúc của
xã hội, đã làm cho “trong Đảng đã xuất hiện các ý kiến khác nhau về một
số vấn đề cơ bản liên quan đến đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng tới sự thống nhất tư tưởng trong cán bộ, đảng
viên và nhân dân, kể cả trong những lực lượng nòng cốt, gắn bó với
Đảng, với chế độ đã phát sinh một số vấn đề tư tưởng, tâm trạng bức xúc
đáng lo ngại, ảnh hưởng đến tính đồng thuận của xã hội. Trong bối cảnh
đó, trong nội bộ ta đã xuất hiện những dấu hiệu “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” cả về tư tưởng và hành động…”
“…Trên lĩnh vực giáo dục-đào tạo vốn là quốc sách, là nền tảng đào
tạo con người, chủ nhân xã hội đã có biểu hiện “phương tây hóa”, nhất
là “Mỹ hóa” trong sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật đã xuất hiện những tác
phẩm trái với bản chất chế độ ta, thiếu trung thực trong phản ánh thực
tiễn cuộc sống của đất nước, suy diễn cực đoan thiếu căn cứ khoa học
những vấn đề lịch sử, say sưa đi tìm cái tôi đã mất, cái tôi thiển cận,
lạc loài, đuổi theo cái tôi ảo vọng. . . đã đánh mất vai trò dẫn dắt tư
tưởng, chức năng giáo dục của văn học nghệ thuật”.
Như vậy, dưới con mắt “cú vọ” của Ban Tuyên Giáo thì đảng CSVN và trong
xã hội đã bị “vi trùng diễn biến hoà bình” xâm nhập vào mọi lĩnh vực
nên mới nẩy sinh những ý kiến bất đồng với đảng.
Phan Xuân Biên nói: “Tất cả những điều đó cùng với những yếu
kém, những bức xúc của xã hội, đã làm cho “trong Đảng đã xuất hiện các
ý kiến khác nhau về một số vấn đề cơ bản liên quan đến đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng tới sự thống nhất tư
tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, kể cả trong những lực lượng
nòng cốt, gắn bó với Đảng, với chế độ đã phát sinh một số vấn đề tư
tưởng, tâm trạng bức xúc đáng lo ngại, ảnh hưởng đến tính đồng thuận
của xã hội . Trong bối cảnh đó, trong nội bộ ta đã xuất hiện những dấu
hiệu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cả về tư tưởng và hành động”.
Có phản ứng bauxite?
Tuy ông Biên không viết ra, nhưng bài báo xuất hiện vào lúc dư luận
đang chú ý đến những phản ứng quyết liệt nổi lên từ trong và ngoài nước
của nhiều người không đồng thuận với quyết định của Bộ Chính trị và
chính phủ cho khai thác Bauxite trên Tây Nguyên.
Trong số những người lên tiếng có cả tướng Võ Nguyên Giáp, bà Nguyễn
Thị Bình, Cựu Phó Chủ tịch Nước và trên 500 nhà trí thức, chuyên viên
khoa học, đảng viên và cán bộ nhà nước.
Những người lên tiếng bày tỏ sự lo âu của họ đối với nguy cơ đất nước
trước hoạ “ngoại xâm” và hậu quả kinh tế, mội trường, xã hội và văn hóa
sẽ để lại cho hàng triệu người dân, không riêng nhân dân của 2 tỉnh Lâm
Đồng và Đắk Nông, nếu kế hoạch khai thác không được sự đồng thuận của
toàn dân.
Những người lên tiếng còn lo ngại việc nhà nước Việt Nam hợp tác với
Công ty Chalco của Trung Hoa và để cho Công ty này tự ý vi phạm luật
Lao động của Việt Nam để đem hàng trăm lao động chân tay vào làm việc
tại dư án Tân Rai (Lâm Đồng) và dự trù đưa khoảng 2 ngàn công nhân đến
Nhân Cơ (Đắk Nông).
Kiến nghị của trên 500 Trí thức do các vị Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Giáo
sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng và Ông Phạm Toàn đứng đầu cuộc vận động đã
được trao tận tay cho Quốc Hội và gửi qua đường Bưu Điện cho Chủ tịch
nước và Thủ tướng Chính phủ (sau khi bị từ chối nhận trực tiếp).
Kiến nghị này tập trung vào 3 điểm:
1) Phải đưa vấn đề dự án bauxite Tây Nguyên ra trước Quốc Hội và mọi chủ trương liên quan phải được Quốc Hội quyết định;
2) Dự án bauxite Tây Nguyên phải chính thức dừng ngay lại, có giám sát
chặt chẽ cho tới khi Quốc Hội xem xét toàn bộ báo cáo tiền khả thi và
đưa ra những phê chuẩn thích hợp. Kính mong Quốc Hội thấu suốt được
tinh thần của đại đa số dân chúng không muốn dự án này tiếp tục vì tất
cả những hệ lụy nặng nề của nó;
3) Những nghiên cứu tiền khả thi với vấn đề bauxite Tây Nguyên cần được dư luận rộng rãi tham gia và theo dõi.
Trong Thư gửi Quốc hội ngày 30-4-2009, ba ông Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Thế Hùng và Ông Phạm Toàn viết : “Gần
đây, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra bản Kết luận
(24-04-2009) về vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Đó không là một
bản Chỉ thị, mà là một bản Kết luận, điều đó thể hiện một thái độ cầu
thị, tôn trọng dư luận, một hành động giao tiếp với công luận. Tất cả
những ai có thiện chí đều nhận ra điều đó.
Tuy nhiên, cũng trên tinh thần dân chủ và cởi mở, trên tinh thần xây
dựng một Nhà nước pháp quyền hiện đại, chắc chắn là Bộ Chính trị cũng
muốn rằng những kết luận của mình sẽ được thể chế hóa thành luật để có
đầy đủ giá trị pháp lý và sức mạnh thực thi.
Vì thế, vai trò của quý vị đại biểu Quốc Hội lúc này, nhất là trong kỳ họp tháng 5-2009 sắp tới, thật vô cùng quan trọng”.
Lá thư viết tiếp: “Mọi người đều biết, từ những năm tám mươi
thế kỉ trước, khối COMECON tuy rất cần nhôm, song đã quyết định không
khai thác bauxite trên lãnh thổ Việt Nam. Lý do của việc này đã được
nói rõ trong hai lá thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà chắc chắn mỗi
đại biểu Quốc Hội đều biết.
Ngày nay, các chuyên gia, các nhà khoa học của ta lại một lần nữa kết
luận dứt khoát rằng khai thác chế biến bô xít ở Tây Nguyên là chuốc lấy
vô vàn rủi ro về môi sinh và văn hóa để làm một việc không có lãi về
kinh tế và tự buộc mình lệ thuộc nguy khốn vào một nước ngoài khách
hàng duy nhất của sản phẩm nhôm đó. Điều này, chắc chắn mỗi đại biểu
Quốc Hội đều biết.
Một em học sinh Trung học của Việt Nam cũng được dạy trong sách giáo
khoa rằng Tây Nguyên là "nóc nhà của Đông Dương". Thế nhưng, cùng với
dự án khai thác bauxite ở vùng này là nguy cơ có mặt của những binh
đoàn "người lao động" nước ngoài tới "làm việc", trong đó nhiều người
đã tới bằng visa du lịch. Sự kiện kèm theo số liệu đó đã được phóng
viên báo “Nhân dân” đưa ra, chắc chắn mỗi đại biểu Quốc Hội đều đã biết
cả.
Thưa quý vị đại biểu,
Thư ngỏ này được công bố trên mạng vào đúng ngày 30 tháng Tư, ngày tổng
kết những mừng vui và nghẹn ngào của dân tộc Việt Nam, đó là điều rất
có ý nghĩa. Nó nhắc nhở quý vị là những nhà lập pháp rằng một việc làm
dù nhỏ nhặt, một lần giơ tay biểu quyết dù vẫn ngập ngừng của quý vị,
đều là một viên đá lót đường để dân tộc ta, Tổ quốc ta chắc chắn có cơ
may ngẩng mặt nhìn ra năm châu thế giới. Điều trái ngược lại sẽ là cái
chết được báo trước, không thể là gì khác!”
Như vậy, phản ứng từ trong nước về vụ Bauxite có thuộc diện “các ý kiến
khác nhau về một số vấn đề cơ bản liên quan đến đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước” như cách nói và nhìn của Phan Xuân Biên
không?
Chắc là có nên trước hiểm hoạ có nhiều cán bộ, đảng viên đã thay đổi
cách liên hệ với đảng, Phan Xuân Biên đã kêu gọi: “Nhiệm vụ cấp bách
được đặt ra cho công tác tư tưởng trong thời kỳ mới là phải tăng cường
tính thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, ngăn
chặn, đẩy lùi những nhân tố “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ ta, góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh
quốc gia trong tình hình mới”.
Đáng chú ý là bài viết của Phan Xuân Biên được đưa ra vào lúc đảng CSVN
kêu gọi các cấp cán bộ, đảng viên trong đảng phải đoàn kết và quyết tâm
hơn nữa để đương đầu với những khó khăn kinh tế và chống lại âm mưu phá
hoại của “các thế lực thù địch”.
Nhưng phía sau lời kêu gọi này cũng thấy hiện ra không ít lo âu về sự
gia tăng phản biện trong xã hội đối với kế hoạch khai thác Bauxite và
hợp tác với Trung Hoa trên “nóc nhà của Đông Dương” ở Tây Nguyên.
Vậy phải chăng những bất đồng ý của tướng Võ Nguyên Giáp, Bà Nguyễn Thị
Bình và của các trí thức, chuyên viên khoa học trong và ngoài nước
quanh vụ bauxite cũng nằm trong quỹ đạo của “Diền Biến Hoà Bình”?
Phạm Trần
30/04/2009
Nguồn: Thông Luận
|