Đinh Từ Thức
Cơ quan đặc trách về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc trước đây chỉ là một
Ủy hội (Commission), trực thuộc Hội đồng Kinh tế Xã hội. Năm 2005, Đại
Hội đồng LHQ đã quyết định sửa Hiến chương, và nâng Ủy hội thành Hội
đồng Nhân quyền, HRC (Human Rights Council), gồm 47 quốc gia hội viên,
từ ngày 15 tháng 3, 2006.
Sau hơn một năm làm việc, vào ngày 18 tháng 6, 2007, HRC chấp thuận một
số biện pháp mới, nhằm mục đích thực thi nhân quyền trên toàn thế giới.
Một trong các biện pháp này là thể thức “Kiểm điểm định kỳ”, viết tắt
là UPR (Universal Periodic Review). Theo thể thức mới này, bắt đầu từ
năm nay, tất cả 192 quốc gia hội viên LHQ, cứ bốn năm một lần, phải báo
cáo về thực trạng cũng như các biện pháp để bảo vệ nhân quyền tại nước
mình, trước đại hội của Hội đồng họp tại trụ sở chính ở Genève. Trong
dịp này, nước báo cáo có thể bị các thành viên của Hội đồng, cũng như
các tổ chức ngoài chính phủ trên thế giới hoặc từ nước mình chất vấn.
Đại diện Việt Nam chính thức trình bầy “Báo cáo nhân quyền” của mình
vào ngày 8 tháng 5, 2009. Trước đó, theo thể lệ, Hà Nội đã công bố bản
báo cáo này vào ngày 23 tháng 4, trên website của Bộ Ngoại giao, để dư
luận có đủ thì giờ chuẩn bị phản bác.
Có vài điều đáng chú ý về báo cáo của Việt Nam:
1. Mọi người đều biết, Đảng Cộng sản nắm vai trò độc
quyền lãnh đạo ở Việt Nam, trên cơ sở luật pháp (Điều 4 HP), cũng như
trên thực tế. Người dân thường được nghe trong các bài diễn văn “nhờ
Đảng và Chính phủ”; các biểu ngữ chăng khắp nơi vào mỗi dip Tết cũng
“Mừng Đảng, Mừng Xuân”. Nhưng suốt từ đầu tới cuối bản báo cáo dài 20
trang, không có chữ nào đề cập tới vai trò của Đảng. Tại sao? Người ta
thường nói “đẹp tốt phô ra, xấu xa đậy lại”, phải chăng vì quá biết
mình, nên Đảng lặn kỹ?
2. Hầu như mọi điều trong báo cáo của Việt Nam đều tốt
đẹp. Có vài điều khó khăn, được coi là do hậu quả chiến tranh để lại.
Tuy nhiên, hai tháng trước, ngày 25 tháng 2, 2009, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
đã công bố báo cáo về nhân quyền tại tất cả các nước trên thế giới,
trong đó, phần nói về Việt Nam dài tới 38 trang, với nhận xét chung là
tình trạng nhân quyền tại Việt Nam “chưa thỏa mãn”.
Cùng nói về thực trạng nhân quyền tại Việt Nam, mà hai bản báo cáo nói
trái ngược nhau. Sự thật chỉ có một. Vậy, giữa Bộ Ngoại giao Việt Nam
và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, chắc chắn có một bên báo cáo láo. Người viết
xin nêu ra một số trích dẫn sau đây, để mời bạn đọc đóng vai quan tòa,
xem bên nào nói láo:
Việt Nam báo cáo:
Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra
với các chức năng lập hiến, lập pháp, hoạch định chính sách phát triển
đất nước và giám sát các hoạt động của Nhà nước. Mọi hoạt động của các
cơ quan Nhà nước trong đó có Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm sát và kể cả
của Chủ tịch nước đều chịu sự giám sát của Quốc hội.
Hoa Kỳ báo cáo:
Các cuộc bầu cử gần đây nhất để lựa chọn các thành viên của Quốc hội đã
được tổ chức vào tháng 5, 2007. Các cuộc bầu cử đã không tự do và cũng
không công bằng, do toàn bộ các ứng viên đều do MTTQ lựa chọn và đề cử.
Mặc dù ĐCSVN đã thông báo trước đấy rằng một số lượng lớn ứng cử viên
“độc lập” (những người không liên kết với một tổ chức hoặc một nhóm
nào) sẽ được tham gia ứng cử, tỉ lệ ứng cử viên tự do chỉ hơi cao hơn
lần bầu cử năm 2002. ĐCSVN đã đồng ý cho 30 ứng cử viên “tự đề cử”, gồm
những người không có sự ủng hộ của chính phủ nhưng được phép ứng cử. Đã
có báo cáo đáng tin cậy rằng cán bộ Đảng đã gây áp lực để nhiều ứng cử
viên tự đề cử từ bỏ ý định tranh cử hoặc viện ra lý do là họ “không đủ
điều kiện” để tranh cử.
Việt Nam báo cáo:
Nhà nước Việt Nam đặc biệt coi trọng việc bảo đảm cho mọi người dân
quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội một cách trực tiếp hoặc thông
qua người đại diện do họ lựa chọn. Tỷ lệ cử tri đi bầu cao (hơn 99%)
tại kỳ bầu cử Quốc hội khoá XII, tháng 5/2007, cho thấy người dân ngày
càng ý thức rõ hơn về quyền của mình và vai trò quan trọng của Quốc hội
trong việc thực hiện quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội của
người dân.
Hoa Kỳ báo cáo:
Theo chính phủ, đã có hơn 99% của 56 triệu cử tri đủ tư cách bầu cử đã
tham gia bỏ phiếu, một con số mà các nhà quan sát quốc tế đã cho rằng
quá cao và thiếu cơ sở. Cử tri được chính quyền cho phép bỏ phiếu hàng
loạt giùm cho các người khác, và chính quyền địa phương có trách nhiệm
bảo đảm tất cả các cử tri đủ điều kiện đi bầu phải tham gia bằng cách
tổ chức bầu theo nhóm và toàn bộ cử tri trong khu vực được ghi nhận là
đã bỏ phiếu. Việc làm này được xem là làm mất đi sự minh bạch và công
bằng của quá trình bầu cử.
Việt Nam báo cáo:
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao
nhất của Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý tổng thể mọi lĩnh vực đời
sống xã hội cũng như đảm bảo việc thực thi Hiến pháp và pháp luật. Hội
đồng Nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, chịu trách
nhiệm bảo đảm thi hành Hiến pháp, pháp luật cũng như mọi lĩnh vực đời
sống xã hội của địa phương thông qua cơ quan chấp hành là Ủy ban Nhân
dân do Hội đồng Nhân dân bầu ra.
Hoa Kỳ báo cáo:
Tất cả quyền hành và quyền lực chính trị đều nằm trong tay ĐCSVN, và
Hiến pháp đã công nhận quyền lãnh đạo của ĐCSVN. Những phong trào đối
kháng hoặc các tổ chức chính trị đều không hợp pháp. Bộ Chính trị ĐCSVN
hoạt động như một cơ quan công quyền tối cao mặc dù đúng ra phải chịu
sự giám sát của Uỷ ban Trung ương ĐCSVN.
Việt Nam báo cáo:
Với các chức năng tư pháp, Tòa án Nhân dân và Viện Kiểm sát Nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Hoa Kỳ báo cáo:
Luật pháp qui định tính độc lập của thẩm phán và hội thẩm viên nhưng
trên thực tế ĐCSVN điều khiển hệ thống toà án ở mọi cấp một cách hiệu
quả bằng cách nắm quyền bổ nhiệm thẩm phán và những cơ cấu liên quan.
Trong rất nhiều vụ án ĐCSVN là người quyết định bản án. Hầu hết, nếu
không nói là tất cả, các thẩm phán đều là đảng viên ĐCSVN và được đề
bạt một phần là dựa trên quan điểm chính trị của họ. Trong những năm
vừa qua, hệ thống pháp lý đã bị lũng đoạn rất nhiều do ảnh hưởng chính
trị, việc tham nhũng cục bộ và thiếu khả năng. Ảnh hưởng của ĐCSVN đặc
biệt nổi bật trong những vụ án lớn trong đó bị cáo bị truy tố là thách
thức hoặc gây tổn hại đến ĐCSVN và nhà nước.
Việt Nam báo cáo:
Tính minh bạch và dân chủ của hệ thống Nhà nước cũng được tăng cường
thông qua vai trò phản biện xã hội của hệ thống báo chí, truyền thông
và các đoàn thể nhân dân. Báo chí Việt Nam trở thành diễn đàn ngôn luận
của các tổ chức xã hội, nhân dân và là lực lượng quan trọng trong công
tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật của các cơ
quan Nhà nước, góp phần mạnh mẽ vào quá trình chống tham nhũng, tiêu
cực ở Việt Nam…
Quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân được tôn trọng và bảo vệ. Công tác
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân đã có sự đổi mới
tích cực. Từ 2006 đến 2008, tỷ lệ giải quyết tố cáo khiếu nại của các
cơ quan hành chính đạt 83,2%; các cơ quan thi hành án dân sự địa phương
92,5%. Pháp luật cũng quy định việc đền bù thiệt hại về vật chất và
tinh thần cho những người bị oan sai.
Hoa Kỳ báo cáo:
Luật pháp qui định tội hình sự đối với quan chức thức tham nhũng; tuy
nhiên chính phủ đã không luôn thực hiện các luật định một cách hiệu quả
và đôi khi cán bộ tham nhũng được bao che. Tham nhũng vẫn tiếp tục là
một vấn đề nghiêm trọng…
Bộ luật chống tham nhũng cho phép công dân được công khai khiếu nại về
sự làm việc thiếu hiệu quả của chính phủ, thủ tục hành chính, tham
nhũng, và chính sách kinh tế. Trong những lần trao đổi trực tuyến qua
mạng với lãnh đạo cấp cao của chính phủ, công dân đã đặt thẳng những
câu hỏi về những nỗ lực chống tham nhũng. Tuy nhiên, chính phủ tiếp tục
xem việc công khai chỉ trích chính trị là phạm pháp, trừ khi những lời
chỉ trích đã được kiểm soát bởi chính quyền. Nỗ lực tổ chức những người
có khiếu nại để tạo điều kiện làm việc có hiệu quả đã được xem như là
hoạt động chính trị trái phép và và có thể bị bắt bớ…
Có rất nhiều báo cáo về tham nhũng trong giới chức trách và chính phủ
thường thiếu minh bạch trong cách thức tịch thu đất đai và dời dân để
sửa soạn cho những công trình hạ tầng cơ sở. Theo luật pháp, người dân
phải được bồi thường khi họ bị dời chỗ ở vì những công trình này, nhưng
đã có nhiều than phiền ngay cả từ Quốc hội là việc bồi thường không đầy
đủ hoặc chậm trễ. Sau những vụ biểu tình về quyền đất đai năm 2007,
chính phủ thành lập một nhóm chuyên trách để thanh tra vài tỉnh miền
Nam, nhưng ít có trường hợp của người đi kiện được giải quyết.
Việt Nam báo cáo:
Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin của người dân Việt
Nam được thể hiện rõ qua sự phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại
hình và phong phú về nội dung của các phương tiện thông tin đại chúng.
Tính đến năm 2008, cả nước có hơn 700 cơ quan báo chí in với 850 ấn
phẩm, gần 15.000 nhà báo được cấp thẻ, 68 đài phát thanh, truyền hình
của trung ương, cấp tỉnh và đài truyền hình kỹ thuật số mặt đất (đài
truyền hình Việt Nam phủ sóng đến 85% hộ gia đình Việt Nam), 80 báo
điện tử và hàng nghìn trang tin điện tử trên mạng Internet, 55 nhà xuất
bản. Báo chí đã trở thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội,
nhân dân, là công cụ quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của xã hội,
các quyền tự do của nhân dân và trong công tác kiểm tra, giám sát việc
thực thi chính sách và pháp luật của Nhà nước, đặc biệt về quyền con
người. Người dân Việt Nam ngày càng tiếp cận tốt hơn với công nghệ
thông tin hiện đại, đặc biệt là Internet, với khoảng 20 triệu người
truy cập, chiếm 23,5% dân số, cao hơn mức trung bình của châu Á (18%).
Ngoài hệ thống thông tin, báo chí, truyền thông trong nước, người dân
Việt Nam còn được tiếp cận với hàng chục hãng thông tấn, báo chí và
kênh truyền hình nước ngoài, như Reuters, BBC, VOA, AP, AFP, CNN và
nhiều báo, tạp chí quốc tế lớn khác.
Hoa Kỳ báo cáo:
Luật pháp cho phép quyền tự do ngôn luận và báo chí; tuy nhiên, chính
phủ vẫn tiếp tục giới hạn những quyền tự do này, nhất là đối với những
phát biểu chỉ trích những nhân vật lãnh đạo nhà nước, quảng bá chính
trị đa nguyên hay dân chủ đa đảng, hoặc đặt vấn đề về những chính sách
mang tính nhạy cảm như nhân quyền, tự do tín ngưỡng, hoặc tranh chấp
chủ quyền lãnh thổ với Trung Quốc. Lằn ranh giữa ngôn luận cá nhân và
công cộng vẫn tiếp tục được giải thích một cách tuỳ tiện…
ĐCSVN, chính phủ và những tổ chức quần chúng do Đảng kiểm soát đã kiểm
duyệt tất cả các hình thức ấn loát, phát thanh, truyền hình, và báo
điện tử. Qua Bộ Thông tin và Truyền thông (BTTTT), chính phủ kiểm soát
và bổ sung quyền hành với những điều lệ của Đảng và điều luật an ninh
quốc gia lớn mạnh để bảo đảm báo chí trong nước tự kiểm duyệt một cách
hữu hiệu…
Mặc dù với sự tiếp tục tăng trưởng của những trang blog trên mạng, việc
đàn áp tự do báo chí toàn khắp vẫn tồn tại trong suốt năm với kết quả
là nhiều biên tập viên cao cấp bị đuổi và hai phóng viên bị bắt. Những
hành động này làm dập tắt phong trào phóng sự điều tra xông xáo trước
đó…
Chính phủ cấm dân chúng truy cập vào mạng qua những công ty cung cấp
dịch vụ mạng ngoại quốc, họ cũng bắt các công ty cung cấp dịch vụ mạng
trong nước lưu trữ tất cả những dữ kiện, tin tức gửi qua mạng trong ít
nhất 15 ngày và đòi hỏi các công ty này cung cấp giúp đỡ kỹ thuật và
văn phòng cho công an để họ dò xét các hoạt động trên mạng…
Trong khi dân chúng tận dụng việc truy cập mạng đang tăng trưởng chưa
từng thấy, chính phủ vẫn kiểm soát thư điện, lục soát và dò xét những
từ nhạy cảm và chặn những địa chỉ trên mạng có nội dung chính trị hay
tôn giáo mà chính quyền cho là “phản cảm”…
Nhà chức trách dùng điều khoản 88 của luật hình sự về việc “phân phát
tài liệu tuyên truyền chống phá nhà nước” để cấm dân chúng không truyền
tải và phổ biến những tài liệu từ mạng mà chính phủ cho là vi phạm.
Nhà cầm quyền tiếp tục giam giữ và cầm tù những nhà bất đồng chính kiến
đã dùng mạng Internet để phát biểu ý tưởng về nhân quyền và chủ nghĩa
đa nguyên…
Việt Nam báo cáo:
Quyền lập hội của người dân được bảo vệ bằng các đạo luật quan trọng và
nhiều văn bản dưới luật liên quan, cụ thể là tại Điều 69 Hiến pháp
1992, và tại Nghị định số 88/ 2003/NĐ-CP ngày 30/07/2003 của Chính phủ
quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Ở Việt Nam hiện có 380
hội có phạm vi hoạt động toàn quốc, liên tỉnh, thành phố (so với 115
vào năm 1990); 18 tổ chức công đoàn ngành, 6.020 tổ chức ở cấp địa
phương, và hàng nghìn hiệp hội, câu lạc bộ hoạt động trong mọi lĩnh vực
xã hội.
Hoa Kỳ báo cáo:
Chính phủ tuyệt đối cấm đoán việc tự do lập hội. Những đảng phái chính
trị đối lập không được cho phép hoặc nhân nhượng. Chính phủ ngăn cấm
tính hợp pháp của việc thành lập những tổ chức tư nhân độc lập và
khuyến cáo người ta nên hoạt động trong những tổ chức quần chúng do
Đảng lập sẵn, thường dưới sự che chở của MTTQ thuộc ĐCSVN. Tuy nhiên,
đã có vài tổ chức bao gồm cả những nhóm tôn giáo không đăng ký đã có
thể hoạt động ngoài khuôn khổ này mà không hoặc ít bị trở ngại với
chính quyền…
Những thành viên của Khối 8406, một tổ chức chính trị chủ trương thành
lập một chính quyền đa đảng đã tiếp tục bị sách nhiễu và giam cầm.
Việt Nam báo cáo:
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ về đảm bảo quyền và
lợi ích của trẻ em. Bên cạnh Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em
Việt Nam giai đoạn 2001- 2010 đang được tích cực triển khai, việc bảo
vệ và thúc đẩy quyền trẻ em cũng được lồng ghép vào các chiến lược, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho trẻ em ngày càng
được hưởng đầy đủ hơn các quyền của mình. Các chương trình khám chữa
bệnh miễn phí, các biện pháp giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và suy dinh
dưỡng đã được triển khai khá hiệu quả (khoảng 8,4 triệu trẻ, chiếm trên
90% trẻ em dưới 6 tuổi, được phát thẻ khám chữa bệnh miễn phí). Tỉ lệ
học sinh đi học đúng độ tuổi ngày càng cao (năm học 2005 - 2006, tỷ lệ
học sinh tiểu học đạt 95,04%, trung học cơ sở đạt 80,3%); tỷ lệ học
sinh bỏ học giảm dần; nhiều chính sách quan tâm, ưu đãi được dành cho
trẻ em nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em di cư, trẻ em người dân tộc
thiểu số… Cơ bản đã tạo được môi trường vui chơi giải trí an toàn, lành
mạnh cho trẻ em (có khoảng 40% xã, phường và 80,3% số quận, huyện có
điểm vui chơi cho trẻ em; 100% thư viện cấp tỉnh và 30% ở cấp huyện có
phòng đọc dành cho trẻ em…). Trẻ em được tạo điều kiện bày tỏ ý kiến,
tham gia vào hoạt động văn hóa, xã hội ở trường học và cộng đồng thông
qua các diễn đàn quốc gia, quốc tế, Đội Thiếu niên Tiền phong, Câu lạc
bộ Phóng viên nhỏ…
Hoa kỳ báo cáo:
Các tổ chức quốc tế và các cơ quan chính phủ tiếp tục tường trình rằng
mặc dù chính phủ vận động bảo vệ và chăm sóc trẻ em, các tổ chức chính
phủ và quốc tế báo cáo rằng trẻ em tiếp tục có nguy cơ bị bóc lột kinh
tế.
Giáo dục cho trẻ em dưới 14 tuổi là bắt buộc, miễn phí và không phân
biệt. Dẫu vậy, qui định này không phải lúc nào cũng được các nhà chức
trách tôn trọng, đặc biệt là ở các vùng quê nông thôn, nơi công quỹ và
ngân sách gia đình cho giáo dục rất hạn chế; thêm vào đó, ở các vùng
kinh tế nông nghiệp, trẻ em là một nguồn lao động đáng kể.
Có dư luận cho rằng trẻ em bị lạm dụng, tuy nhiên thiếu thông tin về
mức độ của sự lạm dụng đó.Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
(LĐTBXH), có khoảng 23.000 trẻ bụi đời dễ bị lạm dụng, và số trẻ này
đôi khi bị công an ngược đãi và quấy nhiễu. Có 2 trung tâm trực thuộc
LĐTBXH giúp đỡ các trẻ em nghèo túng. Các tổ chức trẻ cũng phát động
các phong trào thu hút dư luận về vấn đề này.
Ở các thành phố lớn có trình trạng mãi dâm trẻ em, đặc biệt là trẻ em
nữ, nhưng cũng có trẻ em nam. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, khá đông gái
mại dâm dưới 18 tuổi. Một số trẻ em bị ép vào con đường mại dâm vì lý
do kinh tế.
Việt Nam báo cáo:
Việt Nam luôn cam kết vì sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới, coi
đó là một công cụ quan trọng để tiến tới công bằng và phát triển bền
vững…
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ về đảm bảo các quyền
của phụ nữ. Tỷ lệ nữ là đại biểu Quốc hội đạt 25,76% (nhiệm kỳ
2007-20011), đứng thứ 4 ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. 83% nữ giới
trong độ tuổi lao động có việc làm. Phụ nữ có mặt ở hầu hết các cơ quan
hành chính và doanh nghiệp Nhà nước, với 68,7% cán bộ công chức và 30%
chủ doanh nghiệp là nữ. Phụ nữ còn tham gia tích cực trong các tổ chức
chính trị-xã hội và chiếm khoảng 30% trong ban chấp hành các cấp. Phụ
nữ được đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất/quyền sở hữu
nhà ở cùng với người chồng, được hưởng quyền bình đẳng như nam giới
trong vấn đề quốc tịch. Tỷ lệ biết chữ ở người lớn của nữ là 91%; 30%
số người có trình độ sau đại học là nữ. Tuổi thọ trung bình của phụ nữ
là 73 trong khi nam giới là 70. Phụ nữ có quyền được nghỉ 4 tháng sau
khi sinh con, hưởng nguyên lương và được phụ cấp thêm 1 tháng lương nữa.
Hoa Kỳ báo cáo:
Pháp luật cấm mãi dâm, tuy nhiên việc áp dụng còn nhiều bất cập. Có
nhiều những ước lượng khác nhau: báo cáo của chính phủ cho rằng có
khoảng trên 30.000 gái mãi dâm trên toàn quốc, nhưng một số tổ chức phi
chính phủ lại cho rằng con số này lên đến 300.000 trong cả nước, bao
gồm gái mại dâm nghiệp dư hay làm theo thời vụ. Trong những năm trước,
báo cáo cho rằng một số phụ nữ đã bị ép buộc vào con đường mại dâm,
thường là nạn nhân của những hứa hẹn giả dối về những công việc có
lương cao. Một số đông khác tự nguyện chọn con đường mại dâm vì tình
trạng nghèo đói và thất nghiệp. Có một số trường hợp cá biệt bị cha mẹ
cưỡng ép, hay đòi hỏi tiền bạc quá nhiều, buộc con gái mình phải làm
mại dâm. Hội Phụ nữ, cùng với cái tổ chức phi chính phủ trong nước,
đang tiến hành các chương trình giáo dục và cải tạo để ứng phó với các
trường hợp lạm dụng này.
Mặc dù không bị kỳ thị trên pháp lý, nhưng phụ nữ vẫn tiếp tục bị kỳ
thị ngoài xã hội. Mặc dù có rất nhiều điều khoản và qui định pháp luật
nhằm bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong hôn nhân và ở nơi làm việc cũng
như có nhiều điều khoản trong luật lao động bảo đảm ưu tiên cho họ, phụ
nữ vẫn không đuợc đối xử công bằng.
Việt Nam báo cáo:
Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam trong vấn đề dân tộc là các
dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng tiến bộ…
Việt Nam đang triển khai hai chương trình mục tiêu quốc gia là Chương
trình Hỗ trợ Đất Sản xuất, Đất ở, Nhà ở và Nước sinh hoạt cho hộ đồng
bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn (Chương trình 134) và
Chương trình Phát triển Kinh tế-Xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng
đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa (Chương trình
135). Việc triển khai các chương trình này đã góp phần nâng cao rõ rệt
đời sống của người dân, nhất là vùng sâu, vùng xa; cải thiện cơ sở hạ
tầng, giúp người dân tiếp cận dễ dàng hơn với khoa học, kỹ thuật và áp
dụng vào sản xuất, nâng cao ý thức trách nhiệm và đóng góp của người
dân trong việc thúc đẩy phát triển và thu hẹp khoảng cách vùng miền.
Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam cũng đề ra các chính sách trợ cước trợ
giá, cho hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn vay vốn phát triển sản
xuất, định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số, hỗ trợ một số
dân tộc thiểu số có số dân rất ít người, cấp miễn phí 18 loại báo, tạp
chí cho người dân ở vùng khó khăn.
Hoa Kỳ báo cáo:
Mặc dù nhà nước chính thức cấm, nhưng xã hội vẫn tiếp tục kỳ thị những
người thuộc dân tộc thiểu số. Cộng đồng dân tộc thiểu số hưởng được rất
ít những thành quả tiến bộ của nền kinh tế đang phát triển mạnh.
Một số người thiểu số được cho là đã vượt biên sang Thái Lan và
Campuchia để tìm cơ hội làm ăn tốt hơn, hoặc để tìm đường nhập cư qua
những quốc gia khác. Nhân viên chính phủ theo dõi gắt gao một số sắc
dân thiểu số, đặc biệt là ở vùng Cao nguyên miền Trung, với quan ngại
rằng đạo Tin lành mà họ đang theo đuổi sẽ dẫn đến phong trào đòi ly
khai của các sắc dân tiểu số.
Chính phủ đã tiếp tục dùng nhiều biện pháp an ninh ở vùng Cao nguyên
miền Trung để đối phó với những quan tâm về những hoạt động ly khai của
các dân tộc thiểu số có thể xảy ra. Theo một số báo cáo, công an đã đặc
biệt quan tâm đến trường hợp một số người thiểu số đã điện thoại cho
các cộng đồng của mình ở hải ngoại. Cũng có vài báo cáo rằng những
người thiểu số đào thoát sang Campuchia đã bị công an Việt Nam, họat
động trên cả hai phía biên giới, bắt về và sau đó bị đánh đập và câu
lưu.
***
Trích dẫn bằng đó, xét ra đã quá đủ để quý độc giả có cơ sở ra phán
quyết bên nào nói láo. Nếu quý vị thấy Hoa Kỳ nói láo, thì chắc là hơn
trăm triệu cử tri Hoa Kỳ cũng thấy như vậy, và trong cuộc bầu cử tới,
họ chỉ việc cho ê-kíp Obama về vườn, là xong.
Nếu quý vị kết luận là Việt Nam nói láo, thì hơi phiền. Theo báo cáo của Hoa Kỳ: “Hiến
pháp [Việt Nam] không cho công dân quyền thay đổi chính phủ của họ một
cách hoà bình, và công dân không thể tự do lựa chọn việc thay đổi pháp
luật và nhân sự của nhà nước đương quyền”. Vậy, chỉ còn giải pháp dễ dãi hơn cả, là 86 triệu dân tiếp tục bị tập đoàn nói láo cai trị.
Tài liệu tham khảo: Trích dẫn Báo cáo của
Việt Nam lấy từ website của Bộ Ngoại giao Việt Nam; trích dẫn Báo cáo
của Hoa Kỳ theo bản của X-Café dịch từ tài liệu trên website của Đại sứ
quán Hoa Kỳ ở Hà Nội.
© 2009 Đinh Từ Thức
Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kì việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam của Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 23-4-2009.
Quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin của người dân Việt Nam được
thể hiện rõ qua sự phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình và
phong phú về nội dung của các phương tiện thông tin đại chúng... Báo
chí đã trở thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, nhân dân,
là công cụ quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của xã hội, các quyền
tự do của nhân dân và trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi
chính sách và pháp luật của Nhà nước, đặc biệt về quyền con người... Đọc tiếp >>>
Báo cáo về tình hình nhân quyền ở các nước của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 25-2-2009
Trên
nhiều phương diện, Chính phủ Việt Nam tiếp tục hạn chế các quyền công
dân. Công dân không thể thay đổi chính phủ, các phong trào chính trị
đối lập bị cấm, Chính phủ tiếp tục đàn áp những người bất đồng. Các cá
nhân bị giam giữ tùy tiện vì tiến hành các hoạt động chính trị và bị
tước quyền được xét xử công bằng và đúng trình tự, thủ tục. Trong quá
trình bị bắt, giam giữ và thẩm vấn, các nghi can cũng bị phi phạm các
quyền. Tình trạng tham nhũng là vấn đề nghiêm trọng trong lực lượng
công an, tuy nhiên họ không hề bị truy cứu trách nhiệm. Chính phủ tiếp
tục hạn chế các quyền cá nhân của công dân và quyền tự do bày tỏ. Trong
năm, báo chí tiếp tục bị đàn áp, khiến một số biên tập viên cao cấp của
các báo bị cách chức, hai phóng viên bị bắt... Đọc tiếp >>>
|