Ô Sin
|
Lê Dũng: “Việt Nam có
đầy đủ bằng chứng”.
|
Đại diện Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc đã gửi công hàm tới Tổng thư ký Ban Ki-moon, yêu cầu “không xem xét hồ sơ mà Malaysia và Việt Nam đã nộp đăng ký thềm lục địa mở rộng”.
Đương nhiên là không ai bất ngờ, cũng như đã không ai bất ngờ khi Trung
Quốc có phản ứng về vụ Đà Nẵng bổ nhiệm Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa.
Vấn đề là, khi biển Đông không còn là một tranh chấp tay đôi, Việt Nam
phải làm gì để có thể có sự ủng hộ của bạn bè trước các diễn đàn quốc
tế.
Khi Đà Nẵng bổ nhiệm ông Đặng Công Ngữ làm Chủ tịch Hoàng Sa, từ Bắc
Kinh, Khương Du phát ngôn ngang ngược: “Bất hợp pháp”; từ Hà Nội, ông
Lê Dũng chỉ nói ngoại giao: “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng”.
Từ khi vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa trở thành mối quan tâm của mỗi người
dân yêu nước, tôi từng ngày chờ đợi ông Lê Dũng tuyên bố: “Chủ
quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa đã hiện diện, liên tục hàng trăm năm,
bằng thịt, bằng xương của quân, dân biết bao thế hệ. Hoàng Sa chỉ mới
bị Trung Quốc chiếm đoạt bằng vũ lực vào ngày 19-1-1974”. Tôi
không nghĩ là Khương Du không biết “bằng chứng” trên đây; vấn đề là,
phải chính thức tuyên bố để toàn dân và bạn, thù cùng biết.
* Hôm qua 8.5,
trả lời câu hỏi đề nghị cho biết phản ứng của VN về việc ngày 7.5 phái
đoàn Trung Quốc tại LHQ gửi công hàm lên Tổng thư ký LHQ phản đối việc
VN nộp báo cáo về ranh giới ngoài thềm lục địa VN, người phát ngôn Bộ
Ngoại giao Lê Dũng khẳng định nội dung công hàm của phía Trung Quốc và
bản đồ kèm theo công hàm đó đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền
chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp của VN ở biển Đông. Đường yêu sách
9 đoạn của Trung Quốc thể hiện trên bản đồ đi kèm với công hàm là không
có giá trị vì không có sơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn. Ông Lê Dũng
nhắc lại “một lần nữa, chúng tôi khẳng định VN có đầy đủ bằng chứng
lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với quần
đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa".
TTXVN - Hương Giang
|
Ngày 17-1-1974, ngay sau khi ra lệnh nổ súng cho đề đốc Hồ Văn Kỳ
Thoại, Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đồng thời yêu cầu
Thủ tướng Trần Thiện Khiêm họp nội các, “dùng mọi phương tiện để phản đối trước quốc tế sự xâm phạm của Trung Quốc”;
yêu cầu Thủ tướng chỉ thị cho các đại sứ Việt Nam Cộng Hòa phải lên
tiếng và trình bày rõ ràng về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo này.
Đương nhiên, những động thái ấy của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn
giá trị cả về lịch sử và pháp lý; vấn đề là, cần phải có một lời tuyên
bố, thừa kế một cách công khai những bằng chứng nói trên, khẳng định
cách mà Trung Quốc chiếm đoạt Hoàng Sa của nước ta là hoàn toàn bất hợp
pháp.
Nhớ năm 2008, khi Trung Quốc tranh thủ sự kiện Olympic cho công bố bản
đồ rước đuốc mô tả cả Hoàng Sa và Trường Sa như là một phần của họ,
nghiên cứu sinh tại Pháp Lê Minh Phiếu, người được chọn tham gia rước
đuốc tại Sài Gòn đã viết thư phản đối Trung Quốc gửi lên Chủ tịch Ủy
Ban Olympic quốc tế (IOC). Nhiều người đã mong chờ Chính phủ phản ứng
ngay. Rất tiếc, không thấy tuyên bố nào được đưa ra một cách công khai,
còn Lê Minh Phiếu thì vào phút chót, đã bị Trung Quốc loại khỏi đội
hình cầm đuốc.
Một quan chức ngoại giao cho biết, trong phòng họp, các nhà đàm phán
cũng đã “đấu” rất căng, cuộc tranh cãi với người Trung Quốc giằng co
cho đến chỉ ít phút trước khi diễn ra rước đuốc (29-4-2008); Trung Quốc
đã phải chịu nhượng bộ đưa Hoàng Sa và Trường Sa ra khỏi bản đồ
Olympic. Đó cũng là bằng chứng thành công; nhưng, thành công đó chỉ mới
được biết trong mối quan hệ song phương. Điều quan trọng là IOC và thế
giới phải biết, trong một thế vận hội đầy tính thể thao, Trung Quốc đã
thè “lưỡi bò” để chiếm Trường Sa- Hoàng Sa theo cách chẳng có chút gì
“thượng võ”.
Tôi mong Tướng Hồ Văn Kỳ Thoại và trung tá Vũ Hữu San, hạm trưởng khu
trục hạm Trần Khánh Dư (giờ đây đã là một nhà nghiên cứu tên tuổi về
Biển Đông) tổ chức được một hội thảo về cuộc chiến giữ đảo Hoàng Sa.
Khách mời có thể là: những sỹ quan hải quân Việt Nam Cộng Hòa tham gia
trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974; các quan chức chính quyền Sài Gòn đã
tham dự hoặc chứng kiến các hoạt động phản đối Trung Quốc ở thời điểm
ấy. 34 năm trước đây, những người lính ấy đã chiến đấu “can trường” cho
dù “chiến bại”, sẽ hữu ích biết bao nếu họ mang những tài liệu sống ấy
về, củng cố bộ “bằng chứng Hoàng Sa”.
Tương tự, cũng nên có một cuộc hội thảo do các cựu binh hải quân Việt
Nam, những người tham dự trận chiến giữ đảo Gạc Ma hồi năm 1988. Những
người anh hùng ấy cũng cần được xem lại đoạn phim về cuộc thảm sát do
Trung Quốc tiến hành ở đảo Gạc Ma và xác nhận nó như là bằng chứng. Cả
hai cuộc hội thảo này nên được tiến hành theo thể thức hội thảo khoa
học và hoàn toàn phi chính phủ.
Về phía Nhà nước, nên mời các nhân chứng nói trên đến những cuộc điều
trần có sự chứng kiến của cộng đồng quốc tế và báo giới tại các tòa án
và tại Liên Hiệp Quốc. Chúng ta cần làm cho Thế giới nhận biết sự kiện
xâm lược của Trung Quốc tại các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, diễn ra
trong các năm 1956, 1974 và năm 1988.
Đành rằng, như tuyên bố của người phát ngôn Lê Dũng, Việt Nam “có đầy
đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý”; nhưng, đây là “bằng chứng đầu tiên”,
bằng chứng Trung Quốc đã chiếm đoạt Hoàng Sa và một phần Trường Sa của
Việt Nam “bằng vũ lực”.
Nguồn: http://www.blogosin.org
|