Lê Vĩnh - Nguyễn Thanh Văn
Trong
hai ngày 6 và 7 tháng 5 vừa qua, Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam đã đệ nạp 2
hồ sơ về thềm lục địa Việt Nam cho Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục địa Mở
rộng của Liên Hiệp Quốc (viết tắt là CLCS). Như vậy nhà cầm quyền Hà
nội đã hoàn tất việc đăng ký này trước thời hạn 13/5/09 theo Công Ước
về Luật Biển 1982 (viết tắt là UNCLOS), mà họ đã ký kết năm 1994. Công
ước này qui định mỗi nước ven biển có vùng đặc quyền kinh tế tối đa 200
hải lý tính từ đường cơ sở (tức bờ biển) của nước này. Công Ước về Luật
Biển cũng ấn định nếu thềm lục địa kéo dài hơn 200 hải lý, thì nước đó
có đặc quyền khai thác tài nguyên dưới đáy biển trong một vùng ngoài
200 hải lý gọi là thềm lục địa mở rộng.
Nếu chỉ đọc mẩu tin vừa
kể, người ta có thể cho rằng đây là một nỗ lực đáng khen của Nhà Nước.
Tuy nhiên, đi vào chi tiết của hai hồ sơ đó, người ta dễ dàng nhận ra
ngay rằng các lãnh đạo Đảng và Nhà Nước CSVN chỉ làm việc này để xoa
dịu sự bức xúc và hy vọng nhờ đó sẽ làm giảm áp lực từ nhân dân Việt
Nam, cùng lúc tránh né đụng chạm Bắc Kinh; chứ không nhằm mục đích để
Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục địa Mở rộng Liên Hiệp Quốc xác định thềm lục
địa mở rộng của Việt Nam. Hậu quả của sự tính toán này có thể sẽ khiến
Việt Nam bị mất hầu hết vùng Biển Đông. Tại sao?
Trước khi phân tích hai hồ sơ nói trên, cần phải nhắc lại ở đây một quy định mang tính cách thủ tục của CLCS như sau: “Trong
trường hợp có sự tranh chấp lãnh hải hay đất liền, ủy ban sẽ không xét
và chấp nhận tính hợp lệ lá đơn đệ trình của bất cứ nước nào liên quan
đến chuyện tranh chấp này,” vì Ủy ban Ranh giới Thềm Lục địa Mở
rộng (CLCS) không đóng vai trò như tòa án quốc tế để giải quyết chuyện
tranh chấp lãnh hải giữa các quốc gia.
Trong hồ sơ về thềm lục địa phía nam, nộp chung với Mã Lai hôm 6 tháng 5, điều 4.1 ở trang 2, Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam ghi rõ: “Vẫn còn có những vùng đang trong vòng tranh chấp, chưa giải quyết”
(1). Như vậy, dù không hoàn toàn tuân thủ quy định thủ tục của CLCS,
Nhà Nước CSVN vẫn làm đúng bổn phận tuyên nhận chủ quyền quốc gia trong
hồ sơ quốc tế.
Nhưng đến hồ sơ thềm lục địa phía bắc, tức vùng
thềm lục địa liên quan đến Trung Quốc, được nộp ngày 7 tháng 5, thì Hà
Nội ghi ở trang 3, điều 4, là không có sự tranh chấp trong vùng này
(2). Tuy nhiên, ở phần giới thiệu mở đầu của bản văn dài 8 trang, viết
bằng Anh ngữ của hồ sơ thứ hai họ lại ghi rằng các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa là của Việt Nam. Kiểu xác định nhập nhằng này làm bật lên
nhiều câu hỏi:
Trong vùng thềm lục địa phía bắc, đối tác chính
có vấn đề với Việt Nam là Trung Quốc. Nếu bảo rằng không có tranh chấp
thì các vụ hải quân Trung Quốc ngang nhiên bắt bớ, bắn giết ngư dân
Việt trong vùng này không hề xảy ra sao? Việc Trung Quốc xua đuổi các
tàu thăm dò dầu khí ký kết với Việt nam cũng trong vùng này không hề
xảy ra sao? Và nếu coi như không có, thì quả đúng là các lời tuyên bố
phản đối của đại diện Nhà Nước CSVN về các vụ việc này suốt mấy năm qua
chỉ là chuyện "nói cho có lệ". Nhà Nước chẳng có ý định bảo vệ sinh
mạng nhân dân hay tài sản đất nước.
Với sự xác nhận là không có
tranh chấp nào đối với Trung Quốc, người ta cũng có thể hiểu rằng Hà
Nội đã đồng ý và thoả thuận với những đòi hỏi của Bắc Kinh nên không
còn tranh chấp nữa. Nếu đúng vậy thì câu xác định các quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa là của Việt Nam cũng lại là một câu "nói cho có lệ" khác.
Vì trong thực tế Trung Quốc đang chiếm đóng cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa;
mà Hà Nội lại không "tranh chấp" gì chuyện đó.
Hơn thế nữa,
trong bản đồ đính kèm hồ sơ về thềm lục địa phía Bắc, Nhà Nước CSVN chỉ
vẽ thềm lục địa Việt Nam đến gần 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa rồi
ngừng lại. Và họ khỏa lấp sự thiếu sót có chủ ý đó bằng giòng chữ "sẽ
cung cấp sau". “Sau” là bao giờ? Tại sao một hồ sơ ở cấp quốc gia lại
thiếu phần quan trọng nhất, phần cần xác định nhất như vậy? Và đến khi
bổ túc "sau", liệu hồ sơ còn giá trị gì không khi thời hạn đăng ký theo
quy định của Liên Hiệp Quốc đã hết?!
Mặc dù đã né tránh tới mức
đó, cả hai lần Nhà Nước CSVN nộp hồ sơ về thểm lục địa vừa kể, Trung
Quốc đều lập tức gửi công hàm phản đối và yêu cầu UNCLOS không cứu xét
các hồ sơ đệ nạp của Hà Nội. Bắc Kinh cho rằng hồ sơ Việt Nam "bất hợp
pháp và không có giá trị". Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc là
Mã Triều Húc tuyên bố hồ sơ của Việt Nam là "xâm phạm trắng trợn chủ
quyền Trung Quốc" và tái khẳng định Trung Quốc có "chủ quyền không thể
chối cãi đối với các đảo ở Nam Hải, gồm Tây Sa và Nam Sa và vùng biển
lân cận."
Trước thái độ cực kỳ trịch thượng đó của Bắc Kinh, ông
Nguyễn Quang Vinh, Vụ trưởng vụ Biển thuộc Ban Biên giới Quốc
gia, đã giải thích rằng, báo cáo mà các nước nộp lúc này
chỉ có tính khoa học thuần túy về địa chất, địa mạo để làm
cơ sở cho các liên quan về sau, chứ không có giá trị phân định
ranh giới. Điều ông Nguyễn Quang Vinh giải thích mang đầy nét một lời
xin lỗi đối với Bắc Kinh và càng tự xóa giá trị 2 hồ sơ thềm lục địa mà
Nhà Nước của ông vừa đệ nạp.
Ngoài các quyền lợi chính trị khiến
các lãnh đạo Đảng CSVN hiện nay không dám làm mất lòng Trung Quốc, công
hàm năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng xác nhận vùng biển của Trung Quốc
bao gồm hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa, cũng khiến Hà Nội “há miệng
mắc quai" và đang là nền tảng cho các hành động lấn chiếm của Bắc Kinh
tại biển Đông.
Tóm lại, với thái độ ngập ngừng, miễn cưỡng và tự
xóa giá trị việc xác định thềm lục địa Việt Nam, 15 thành viên Bộ Chính
Trị Đảng CSVN một lần nữa lại đặt các quyền lợi chính trị của riêng họ
lên trên các giá trị và quyền lợi của cả quốc gia. Dân tộc Việt Nam cứ
mất dần và có xác suất sẽ mất trắng những vùng đảo, vùng biển truyền
đời của cha ông, một khi CLCS công nhận những gì Trung Quốc đòi hỏi
trong hồ sơ của họ. Đứng trước viễn cảnh này, người Việt Nam cần phải
làm những gì? Đây là điều sẽ được đề cập đến trong bài kế tiếp.
— -
Ghi chú: (1) Hồ sơ thềm lục địa phía Nam (ngày 6/5): http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/submission_mysvnm_33_2009.htm có đoạn: "4.1
The two coastal States wish to inform the Commission that there are
unresolved disputes in the Defined Area of this Joint Submission. This
Joint Submission......"
(2) Hồ sơ thềm lục địa phía Bắc (ngày 7/5): http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/submission_vnm_37_2009.htm có đoạn: "4. Absence of disputes In
accordance with Paragraph 2(a) of Annex I to the Commission’s Rules of
Procedures, Vietnam wishes to inform the Commission that there is a
common understanding that the area of continental shelf which is the
subject of this Submission is of overlapping interests expressed by
relevant coastal States. Nevertheless, subject to the provisions of
UNCLOS 1982, Vietnam is of the view that the area of continental shelf
that is the subject of this Submission is not a subject of any overlap
and dispute. Further, Vietnam wishes......."
|