Trân Văn, phóng viên RFA
2009-05-14
Từ
tháng ba vừa qua, trên nhiều diễn đàn điện tử và vài tờ báo chính thức
ở Việt Nam, vấn đề “đăng ký ranh giới thềm lục địa mở rộng” của Việt
Nam, trước khi thời hạn cho phép đăng ký chấm dứt vào ngày 13 tháng 5
năm 2009, trở thành một đề tài nóng.
Photo: RFA
Bản đồ khu vực tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc trong Biển Đông
Đã có khá nhiều ý kiến
thúc giục chính quyền Việt Nam nên thực hiện công việc cần thiết đó. Thậm chí,
có diễn đàn như website Đối Thọai còn làm một đồng hồ đếm ngược thời gian, nhằm
nhấn mạnh yếu tố quan trọng của việc “đăng ký ranh giới vùng đặc quyền kinh tế”...
Đến cuối tháng 4, chính
quyền Việt Nam tuyên bố sẽ thực hiện công việc cần thiết này và ngày 7 tháng 5,
Việt Nam chính thức gửi hồ sơ “đăng ký ranh giới thềm lục địa mở rộng”.
Hiện đang có khá nhiều diễn
biến đáng chú ý quanh sự kiện này. Lọat bài “Đồng thuận và nội lực” được thực
hiện nhằm tổng hợp các diễn biến, cũng như ý kiến liên quan đến sự kiện vừa được
đề cập.
Công ước LHQ về Luật Biển
Biển đem lại nhiều nguồn lợi
quan trọng nên việc xác lập chủ quyền trên biển luôn là vấn đề phát sinh rất
nhiều tranh chấp, tranh cãi.
Các quan niệm về chủ quyền
trên biển đã được đề cập từ thế kỷ 17 nhưng không có quan niệm nào được thừa nhận
như nguyên tắc chung cho mọi quốc gia.
Đầu thập niên 1930, Hội Quốc
Liên (tiền thân của tổ chức Liên Hiệp Quốc) bắt đầu tổ chức những hội nghị liên
quan đến chủ quyền trên biển, song 52 năm sau (1982), Công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển (gọi tắt là UNCLOS) mới được xem như hoàn chỉnh và mất thêm 12 năm nữa
(1994), mới có hiệu lực thi hành.
UNCLOS hiện hành là một bộ
quy tắc ấn định cách xác lập chủ quyền, thiết lập các giới hạn, ấn định các
nguyên tắc liên quan đến giao thông trên biển, khai thác tài nguyên biển, bảo vệ
môi trường biển, nghiên cứu khoa học và giải quyết tranh chấp…
Dựa trên UNCLOS, các quốc gia
ven biển sẽ tự xác định “đường cơ sở” để qua đó xác lập: Nội thủy, Lãnh hải,
Vùng tiếp giáp lãnh hải, Thềm lục địa.
UNCLOS định nghĩa, “đường cơ
sở” là đường chạy dọc bờ biển khi thủy triều xuống. Nếu bờ biển không ổn định,
thụt sâu vào đất liền hoặc có đảo ven bờ thì các quốc gia có biển có thể vạch
các đường thẳng và lấy đó làm “đường cơ sở”.
Vùng biển ở bên trong “đường
cơ sở” được gọi là “nội thủy”. Đây là khu vực mà tàu thuyền nước ngoài bất khả
xâm phạm. Quốc gia ven biển toàn quyền sử dụng, kiểm sóat, khai thác “nội thủy”
của mình.
Vùng biển ở phía ngoài “đường
cơ sở” lần lượt là:
“Lãnh hải” (chiều ngang 12 hải
lý, tính từ mép ngoài của đường cơ sở ra hướng đại dương). Quốc gia ven biển vẫn
toàn quyền sử dụng, kiểm sóat, khai thác “lãnh hải” của mình nhưng tàu thuyền nước
ngoài có quyền “qua lại” nếu “không gây hại”.
Kế đó là “vùng tiếp giáp lãnh
hải” (chiều ngang 12 hải lý, tính từ mép ngoài của “lãnh hải” ra hướng đại
dương). Quốc gia ven biển vẫn còn quyền sử dụng, kiểm sóat có giới hạn, khai
thác “vùng tiếp giáp lãnh hải” của mình nhưng không được hạn chế quyền “tự do
đi lại” của tàu thuyền nước ngoài.
Ngoài ra, UNCLOS còn
xác định “vùng đặc quyền kinh tế” (chiều ngang 200 hải lý, tính từ mép ngoài của
“đường cơ sở” ra hướng đại dương). Trong “vùng đặc quyền kinh tế”, quốc gia ven
biển vẫn còn quyền sử dụng, quyền khai thác “vùng đặc quyền kinh tế” của mình
nhưng không có quyền ngăn cấm tàu thuyền, máy bay của nước ngoài qua lại và phải
cho nước ngoài đặt các đường ống, đường cáp ngầm dưới đáy biển.
Đồng thời UNCLOS còn có thêm
định nghĩa về “thềm lục địa mở rộng”, nếu thềm lục địa của quốc gia ven biển rộng
hơn 200 hải lý. Tuy nhiên, tính từ “đường cơ sở” ra hướng đại dương, “thềm lục
địa mở rộng” không được quá 350 hải lý hoặc không xa hơn khu vực có độ sâu 2.500m,
100 hải lý. Trong khu vực “thềm lục địa mở rộng”, quốc gia ven biển chỉ được độc
quyền khai thác khoáng sản và các tài nguyên không phải sinh vật.
Nếu dùng công thức của UNCLOS cho Việt Nam thì thềm lục
địa mở rộng của Việt Nam có thể rất rộng. Nó có thể ra rất xa. Thành ra Việt
Nam có rất nhiều quyền lợi trong thềm lục địa mở rộng của mình.
Ô. Dương Danh Huy
Nguyên tắc quyền lợi
Cũng theo UNCLOS, nếu muốn thủ
đắc các quyền liên quan đến “thềm lục địa mở rộng”, quốc gia ven biển phải đăng
ký ranh giới trong vòng 10 năm, kể từ khi UNCLOS có hiệu lực với quốc gia đó.
Hoặc là 10 năm sau ngày 13 tháng 5 năm 1999, thời điểm Ủy ban Ranh giới về Thềm
lục địa, ban hành hướng dẫn về “ranh giới thềm lục địa”.
Việt Nam phê chuẩn UNCLOS năm
1994 nhưng 10 năm sau (2004) vẫn chưa đăng ký ranh giới “thềm lục địa mở rộng”.
Nếu tiếp tục không đăng ký ranh giới “thềm lục địa mở rộng”, sau ngày 13 tháng
5 năm 2009, Việt Nam sẽ không còn quyền đòi hỏi về thềm lục địa mở rộng của
mình nữa.
Do vậy,
khoảng hai tháng trước khi thời hạn cho phép đăng ký ranh giới “thềm lục địa mở
rộng” hết hạn, đã có nhiều nơi, nhiều người lên tiếng thúc giục chính quyền Việt
Nam nên thực hiện công việc cần thiết này.
Ở thời
điểm đó, trả lời Đài chúng tôi, ông Dương Danh Huy, thành viên Qũy Nghiên cứu
Biển Đông, giải thích về tầm quan trọng cũng như hậu quả nếu Việt Nam không
đăng ký ranh giới “thềm lục địa mở rộng” đúng hạn:
"Nếu dùng công thức của UNCLOS cho Việt Nam thì thềm lục
địa mở rộng của Việt Nam có thể rất rộng. Nó có thể ra rất xa. Thành ra Việt
Nam có rất nhiều quyền lợi trong thềm lục địa mở rộng của mình. Nếu lỡ thời hạn
này, Việt Nam sẽ không có quyền khai thác dầu khí trong vùng thềm lục địa mở rộng
của mình."
Đáp
lại sự thúc giục đó, ngày 28 tháng 4, qua báo chí Việt Nam, ông Nguyễn Quang Vinh, Vụ trưởng Vụ Biển,
Ban Biên giới thuộc Bộ Ngoại giao, chính thức loan báo: “Việt Nam đang gấp rút
chuẩn bị để nộp đăng ký ranh giới ngoài của thềm lục địa đúng thời hạn”.
Đăng ký thềm lục địa chung với Malaysia là một việc
làm khôn khéo của chính phủ Việt Nam. Ít ra giữa Việt Nam và Malaysia đã có tiếng
nói chung trong việc xác lập vùng đặc quyền kinh tế cũng như thềm lục địa
LS.Lê Minh Phiếu
Khoảng một tuần sau, một số hãng thông tấn quốc tế cho biết, ngày
7 tháng 5, Việt Nam và Malaysia đã chính thức gửi hồ sơ cho Liên Hiệp Quốc để
cùng đăng ký khu vực thềm lục địa ngoài phạm vi 200 hải lý.
Khi được đề nghị nhận định về
sự kiện này, luật sư Lê Minh Phiếu, nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Pháp, cũng là
thành viên Qũy Nghiên cứu Biển Đông, cho rằng:
"Đăng ký thềm lục địa chung với Malaysia là một việc
làm khôn khéo của chính phủ Việt Nam. Ít ra giữa Việt Nam và Malaysia đã có tiếng
nói chung trong việc xác lập vùng đặc quyền kinh tế cũng như thềm lục địa.
Tuy
chưa thể giải quyết vấn đề đảo, nhất là Trường Sa nhưng hai nước đã có quan điểm
chung về những nguyên tắc cũng như những vấn đề cụ thể trong việc xác định thềm
lục địa và vùng đặc quyền kinh tế trên biển Đông."
Tiếc rằng, giống như nhiều lần
trước đó, mỗi khi Việt Nam mạnh mẽ minh định chủ quyền của mình trên biển Đông,
Trung Quốc – lân bang đã từng nhiều lần tuyên bố sẽ cùng Việt Nam thực hiện “16
chữ vàng” (láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai), trên tinh thần “bốn tốt”
(láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt) lại tiếp tục gây rắc rối.
Phản ứng của Trung Quốc
Ngay trong ngày 7 tháng 5, thời điểm Việt Nam và Malaysia chính thức
gửi hồ sơ cho Liên Hiệp Quốc để cùng đăng ký khu vực thềm lục địa ngoài phạm vi
200 hải lý, Tân Hoa Xã loan báo, Trung Quốc đã yêu cầu Ủy ban Ranh giới Thềm lục
địa của Liên Hiệp Quốc không xét hồ sơ chung của Việt Nam và Malaysia theo Công
ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (gọi tắt là UNCLOS) vì điều này “vi phạm
chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông”.
Trước phản ứng đó của Trung
Quốc, ông Lê Hưng Quốc, một người từng được đào tạo về công pháp quốc tế tại
Liên Xô, cựu phó giám đốc Sở Ngọai vụ TP.HCM, hiện đang là Chủ tịch Liên hiệp
các tổ chức hữu nghị TP.HCM, nhận xét:
"Tôi
cho rằng phản ứng như vậy là không đúng ở chỗ, mọi nước ven biển đều có quyền đệ
đạt Liên Hiệp Quốc xem xét vùng đặc quyền kinh tế theo đúng quy định của Công ước
1982 về Luật Biển.
Vì vậy, Trung Quốc có quyền đề nghị, Việt Nam có quyền đề
nghị, Malaysia có quyền đề nghị, Philippines cũng đã đề nghị và tất cả các nước
ven biển đều có quyền đề nghị hết. Còn việc Liên Hiệp Quốc xem xét như thế nào
thì lại trên cơ sở đồng thuận của các nước quanh khu vực tranh chấp. Đấy lại là
vấn đề khác."
Tôi
cho rằng phản ứng như vậy là không đúng ở chỗ, mọi nước ven biển đều có quyền đệ
đạt Liên Hiệp Quốc xem xét vùng đặc quyền kinh tế theo đúng quy định của Công ước
1982 về Luật Biển.
Ô. Lê Hưng Quốc
Trung Quốc phê chuẩn UNCLOS từ
năm 1995 nên về nguyên tắc, Trung Quốc cũng có quyền đăng ký ranh giới “thềm lục
địa mở rộng”, trước ngày hết hạn đăng ký là 13 tháng 5 năm 2009 như ông Lê Hưng
Quốc đề cập. Tuy nhiên Trung Quốc đã không làm điều này. Vì sao?
Ông Phạm Hoàng Quân - một người chuyên nghiên cứu về những “chứng
cứ” có tính chất lịch sử mà Trung Quốc sử dụng để tuyên bố “chủ quyền” trên biển
Đông - khẳng định:
"Căn cứ vào cổ sử của
Trung Quốc, những tài liệu thuộc chính sử như là các bộ sử do triều đình biên sọan,
những bộ địa phương chí của tỉnh Quảng Đông, phủ Quỳnh Châu,… tôi thấy họ không
ghi nhận Hoàng Sa, Trường Sa trong cương đế hành chính. Mặt khác, trên các địa
đồ hành chính.
Từ lúc có địa đồ tổng quan của toàn Trung Quốc, đến lúc có địa đồ
của các huyện giáp giới như Quảng Đông hoặc Hải Nam, không ai thấy họ vẽ các quần
đảo vào địa hạt hành chính của họ.
Ô.Phạm Hoàng Quân
Từ lúc có địa đồ tổng quan của toàn Trung Quốc, đến lúc có địa đồ
của các huyện giáp giới như Quảng Đông hoặc Hải Nam, không ai thấy họ vẽ các quần
đảo vào địa hạt hành chính của họ.
Điểm thứ ba là các tài liệu như người Trung
Quốc dùng để nói rằng họ đã phát hiện thì đó là nhật ký du hành của những nhà
hang hải Trung Quốc, những nhà buôn hoặc những nhà ngọai giao.
Đó là những điều
mà họ thấy, họ ghi lại chứ không phải nhằm đặt quyền phát hiện và khai thác. Nó
không đủ điều kiện để gọi là bản hạt của nhà nước. Thí dụ anh đi biển, anh nhìn
thấy nơi nào đó rồi anh ghi lai trong du ký thì người nào cũng ghi nhận được.
Họ
chỉ đem những dữ liệu từ những du ký đó để nói rằng, người Trung Quốc phát hiện
sớm. Lý luận của người Trung Quốc hiện giờ là như vậy.
Quan điểm của Việt Nam
Cùng bàn về vấn đề kể trên, Tiến sĩ Nguyễn Nhã - người đeo đuổi công việc nghiên cứu chủ quyền của Việt
Nam trên biển Đông trong hơn ba mươi năm qua – nhận định:
"Tôi được biết Ban Biên giới và Bộ Ngọai Giao
đã chuẩn bị rất kỹ về việc này. Giống như báo chí đã đưa, trước khi công bố chính
thức, Việt Nam đã tham khảo các nước liên quan. Theo tôi đó là một việc làm rất
khôn ngoan về ngọai giao.
Theo tôi được biết chắc là Trung Quốc không đăng ký
gì vì không có cơ sở nào để đăng ký. Như vậy thì Việt Nam cũng như các nước
ASEAN phải dựa vào nhau thôi. Đó là một trong những hướng mà Việt Nam có thể bảo
vệ hiệu quả chủ quyền của mình ở Trường Sa.
Tiến sĩ Nguyễn Nhã
Theo tôi được biết chắc là Trung Quốc không đăng ký
gì vì không có cơ sở nào để đăng ký. Như vậy thì Việt Nam cũng như các nước
ASEAN phải dựa vào nhau thôi. Đó là một trong những hướng mà Việt Nam có thể bảo
vệ hiệu quả chủ quyền của mình ở Trường Sa."
Trong
thực tế, biển Đông đã và vẫn là khu vực rất “nóng” vì
những tranh chấp do có sự chồng lấn về lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế giữa
các quốc gia với nhau (Việt Nam, Malaysia, Bruinei, Philippines, Indonesia,
Thái Lan, Cambodia, Trung Quốc, Đài Loan).
Đến nay, Việt Nam đã ký năm hiệp
định và thỏa thuận với các quốc gia để giải quyết một phần những tranh chấp
liên quan đến biển: Cambodia (1982), Malaysia (1992), Thái Lan (1997), Trung Quốc
(2000), Indonesia (2003).
Hồi
cuối tháng 4, khi loan báo việc Việt Nam sẽ đăng ký ranh giới thềm lục địa mở rộng
trước khi hết hạn đăng ký, ông Nguyễn
Quang Vinh, Vụ
trưởng Vụ Biển, Ban Biên giới, Bộ Ngoại giao, tiết lộ: Việt Nam
đã chủ động liên hệ cùng các nước láng giềng có chung đường biên
giới trên biển để trao đổi về việc đăng kí đường ranh giới ngoài của thềm lục địa.
Đến nay, Việt Nam đã cùng thỏa thuận với Malaysia
viết báo cáo chung lên Liên hiệp quốc. Việt Nam đã mời Brunei cùng tham gia quá
trình này và mới đây, Brunei muốn cùng tham gia. Philippines cho biết sẽ không
nêu khu vực chồng lấn với Việt Nam trong báo cáo của mình, xem đây là khu vực bảo
lưu, sẽ có báo cáo sau. Lãnh đạo Philippines cam kết sẽ không phản đối báo cáo
của Việt Nam.
Tôi được biết Ban Biên giới và Bộ Ngọai Giao
đã chuẩn bị rất kỹ về việc này. Giống như báo chí đã đưa, trước khi công bố chính
thức, Việt Nam đã tham khảo các nước liên quan. Theo tôi đó là một việc làm rất
khôn ngoan về ngọai giao.
Tiến sĩ Nguyễn Nhã
Riêng với Trung Quốc, nước này phản đối tất cả các nước
trong khu vực về báo cáo biên giới ngoài thềm lục địa, không chỉ riêng Việt
Nam.
Đúng như dự đoán,
Trung Quốc đã phản đối gần như lập tức. Ngày hôm sau, ông Lê Dũng, người phát
ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, tuyên bố: “Nội
dung công hàm của phía Trung Quốc và bản đồ kèm theo công hàm đó đã vi phạm
nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp của Việt Nam
ở Biển Đông. Đường yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc thể hiện trên bản đồ đi kèm với
công hàm là không có giá trị vì không có sơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn”.
Tuyên bố vừa kể sau khi Trung Quốc ngăn cản Việt
Nam và Malaysia đăng ký ranh giới “thềm lục địa mở rộng”, được xem là phản ứng
mạnh mẽ hiếm có. Trước đây, mỗi lần Trung Quốc có những hành động xâm hại chủ quyền của Việt
Nam trên biển Đông, người phát ngôn của Bộ Ngọai giao Việt Nam thường chỉ lập
đi, lập lại rằng: Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng
định chủ quyền của mình... rồi… ngừng ở đó!
Phản ứng của Trung Quốc dẫn tới
những hệ quả nào và Việt Nam cần làm gì? Đó sẽ là nội dung bài thứ ba. Mời quý
vị tiếp tục đón xem.
|