Luật sư Nguyễn Hữu Thống
Ngày 7-5 vừa qua Chính Phủ Hà Nội đã đệ trình đơn đăng ký từng
phần (partial submission) để yêu cầu Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp
Quốc cho Việt Nam mở rộng thềm lục địa pháp lý 200 hải lý (370km) thành thềm lục
địa mở rộng hay thềm lục địa địa chất tới mức 350 hải lý (650 km) chiếu Điều 76
Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Đơn đăng ký đã được đệ nạp trong thời
hạn luật định và sẽ được Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc đăng đường
vào khóa họp tại Nữu Ước từ trung tuần tháng 8 đến trung tuần tháng 9 tới đây.
Sau khi cứu xét hồ sơ căn cứ vào những tiêu chuẩn đặc thù ghi trong Bản Cương
Lĩnh về Khoa Học Kỹ Thuật ngày 13-5-1999, Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa sẽ công
bố những khuyến cáo có hiệu lực chấp hành chung quyết buộc các quốc gia đăng ký
phải tôn trọng và thi hành.
Về mặt pháp lý, chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển, tại Biển Đông Nam Á hay Biển Đông, các quốc gia duyên hải như Trung Quốc,
Việt Nam, Nam Dương, Mã Lai, Brunei, Phi Luật Tân được hưởng quy chế thềm lục
địa pháp lý rộng 200 hải lý từ biển lãnh thổ ra khơi. Chiếu Điều 77 Công Ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển thềm lục địa 200 hải lý thuộc chủ quyền tuyệt đối và
đặc quyền chuyên hữu của quốc gia duyên hải trong việc thăm dò và khai thác dầu
khí. Mọi sự xâm chiếm dầu có võ trang hay không của ngoại bang đều vô giá trị và
vô hiệu lực. Chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam tại các thềm lục địa Hoàng Sa và
Trường Sa không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm cứ (occupation), thăm
dò (exploration), khai thác (exploitation) hay công bố minh thị (express
proclamation). Do đó dầu không còn chiếm cứ 13 đảo tại Hoàng Sa từ 1974, và một
số đảo, cồn , đá, bãi tại Trường Sa từ 1988, Việt Nam vẫn không mất chủ quyền
lãnh thổ tại các hải đảo này.
Tại quần đảo Hoàng Sa về phía đông bắc có 7 đảo thuộc Nhóm An
Vĩnh (Amphitrite) là các đảo Phú Lâm, Lincoln, đảo Cây, đảo Hòn Đá, đảo Bắc, đảo
Trung và đảo Nam. Về phía tây nam có 6 đảo thuộc Nhóm Lưỡi Liềm (Crescent,
tiếng Pháp là Croissant) là các đảo Hoàng Sa, Quang Hòa, Duy Mộng, Quang Ảnh,
Hữu Nhật và Trí Tôn. Các hải đảo này nằm trên thềm lục địa Việt Nam tại các Vỹ
Tuyến 17-16-15 cách bờ biển Việt Nam khoảng 160 hải lý. Riêng đảo Trí Tôn phía
cực nam tọa lạc tại Vỹ Tuyến 15.47 Bắc cách Quảng Ngãi 135 hải lý.
Theo Tòa Án Quốc Tế The Hague muốn thủ đắc chủ quyền các đảo
vô chủ, phải có sự chiếm cứ hòa bình trong một thời gian liên tục và trường kỳ.
Tháng 1-1974 thừa dịp quân lực Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam, Trung
Quốc đã dùng võ trang xâm chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm Lưỡi Liềm. Trước đó,
vào cuối năm 1946, thừa dịp Hải Quân Pháp rút khỏi Biển Đông, Trung Quốc đã xâm
chiếm bất hợp pháp 7 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm An Vĩnh. Sự chiếm cứ võ trang này
đi trái với án lệ cố định của Tòa Án Quốc Tế The Hague cũng như trái với Công
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Hơn nữa từ thế kỷ 16 dưới đời Nhà Nguyễn Xứ Đàng Trong, kế đến
đời Nhà Nguyễn Tây Sơn và Quốc Gia Việt Nam thống nhất đời Nhà Nguyễn Gia Long,
Việt Nam đã chiếm cứ ôn hòa, trường kỳ và liên tục các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, đồng thời minh thị công bố chủ quyền và hành sử chủ quyền tại các
quần đảo này. Như vậy các hải đảo của Việt Nam tại Biển Đông không phải là
đất vô chủ (terra nullius) vì thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam liên tục
ít nhất từ 5 thế kỷ nay.
Năm 1949, do Hiệp Định Elysee, Pháp trao trả chủ quyền độc lập
và thống nhất cho Quốc Gia Việt Nam với sự toàn vẹn lãnh thổ từ Nam Quan đến Cà
Mâu. Lãnh thổ có nghĩa là đất liền, hải phận và không phận. Như vậy không
có sự chối cãi rằng Quốc Gia Việt Nam đã thủ đắc chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải
tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự xâm chiếm Biển Đông bằng võ trang của Quân Đội Trung Quốc
trong những năm 1946, 1974 và 1988 không được Tòa Án và Luật Pháp nhìn nhận.
cũng như sự xâm chiếm võ trang các hải đảo tại Biển Đông của Quân Đội Nhật Bản
thời Thế Chiến II.
Năm 1951, 51 quốc gia đồng minh tham dự Hội Nghị San Francisco
để ký Hiệp Ước Hòa Bình và Tái Thiết Nhật Bản. Tại Hội Nghị Nhật Bản tuyên bố
khước từ chủ quyền tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhưng không nói để trả
cho nước nào. Trong Dự Án Hiệp Ước Hòa Bình San Francisco 1951, các quốc gia
đồng minh tham dự Hội Nghị chỉ quyết định trao trả cho Trung Quốc đảo Đài Loan
và quần đảo Bành Hồ tại Thái Bình Dương. Trong một phiên họp khoáng đại Ngoại
Trưởng Liên Sô đệ nạp bản Tu Chính Án yêu cầu Hội Nghi trao cho Trung Quốc các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên tu chính án của Liên Sô đã bị Đại Hội
bác bỏ với 46 phiếu chống và 3 phiếu thuận. Sau đó trưởng phái đoàn Quốc Gia
Việt Nam là Thủ Tướng Trần Văn Hữu đã lên diễn đàn công bố chủ quyền lãnh thổ
của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp sự phản kháng
nào, kể cả của Liên Sô (lúc này là quốc gia đồng minh với Anh, Mỹ, Pháp và Trung
Hoa từ thời Thế Chiến II).
Năm 1954, 7 quốc gia tham dự Hội Nghị Geneva về Việt Nam trong
đó có ngũ cường Anh, Mỹ, Pháp, Liên Sô và Trung Quốc cùng 2 nước Việt Nam là
Quốc Gia Việt Nam (Miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc). Anh Quốc
và Liên Sô là đồng chủ tịch Hội Nghị. Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 một lần
nữa đã minh thị xác nhận chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Quốc Gia Việt Nam từ
Vỹ Tuyến 17 vào Nam (Quảng Trị-Cà Mâu).
Điều 4 Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 quy định như sau:
Giới tuyến giữa Miền Nam và Miền Bắc kéo dài ra ngoài hải
phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển. Quân đội Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải rút khỏi tất cả các hải đảo về phía Nam giới tuyến (Vỹ
Tuyến 17) để trao trả chủ quyền các hải đảo này (tại Hoàng Sa và Trường Sa) cho
Quốc Gia Việt Nam (năm 1954) và Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1955. Các hải đảo này
tọa lạc từ Vỹ Tuyến 17 (Quảng Trị) đến Vỹ Tuyến 7 (phía Đông Nam Cà Mâu)
Năm 1954 Pháp và Trung Quốc đã chủ xướng triệu tập Hội Nghị
Geneva về Việt Nam với Liên Sô và Trung Quốc là đồng chủ tịch Hội Nghị. Như vậy
về mặt quốc tế công pháp Trung Quốc có nghĩa vụ phải tôn trọng và thi hành những
điều khoản của Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954, đặc biệt là Điều 4 xác nhận chủ
quyền lãnh thổ của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
VỀ ĐƠN
THỈNH NGUYỆN CỦA VIỆT NAM YÊU CẦU MỞ RỘNG THỀM LỤC ĐỊA
Ngày 7-5-2009 Chính Phủ Việt Nam đệ trình Ủy Ban Định Ranh Thềm
Lục Địa Liên Hiệp Quốc bản báo cáo có kèm theo Họa Đồ (Figure) và Bản Tọa Độ
(Table) với 45 điểm ranh mốc xác định giới tuyến thềm lục địa mở rộng (extended
continental shelf). Như đã trình bày đơn thỉnh nguyện (submission) của Việt Nam
sẽ được Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa đăng đường vào khóa họp tại Nữu Ước từ
trung tuần tháng 8 đến trung tuần tháng 9 tới đây.
Phản ứng tiên khởi của Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền là ngỡ
ngàng và xót xa.
Vì hai lý do:
1. Theo Họa Đồ số 1
(Figure 1 Outer limits of the Vietnam’s extended continental shelf: North Area
(VNM-N) do Chính Phủ Hà Nội xuất trình, điểm khởi hành của ranh giới Thềm Lục
Địa Mở Rộng (Vietnam 350M), về hải phận phía Bắc đối diện với Trung Quốc chỉ
khởi sự từ ranh mốc số 1 tọa lạc tại Vỹ Tuyến 15.06 Bắc (ngang tầm với Quảng
Ngãi) và Kinh Tuyến 115.14 Đông.
Điểm 45 kết thúc giới
tuyến Thềm Lục Địa Mở Rộng
tọa lạc tại Vỹ Tuyến 10.75 Bắc (ngang tầm với Phan Thiết) và Kinh Tuyến
112.62 Đông.
Như vậy Chính Phủ Việt Nam
đã chính thức xác nhận với Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc rằng
Thềm Lục Địa Mở Rộng của Việt Nam tại hải phận phía Bắc chỉ chạy từ Vỹ Tuyến
15.06 Bắc xuống Vỹ Tuyến 10.75 Bắc (từ Quảng Ngãi xuống Phan Thiết).
Trong trường hợp này Chính
Phủ Hà Nội đã mặc nhiên khước từ chủ quyền lãnh hải của Việt Nam từ Vỹ Tuyến
15.06 Bắc (Quảng Ngãi) lên Vỹ Tuyến 17 (Quảng Trị). Nghĩa là Việt Nam đã cống
hiến cho Trung Quốc một hải phận gồm 3 Vỹ Tuyến 15- 16-17 trong đó tọa lạc 13
đảo Hoàng Sa. Về mặt vị trí, đảo Trí Tôn tại cực nam (với tọa độ 15.47 Bắc) cũng
nằm về phía Bắc tọa độ 15.06 Bắc mà Chính Phủ Hà Nội chọn làm điểm ranh mốc cao
nhất về phía Bắc của Thềm Lục Địa Mở Rộng Việt Nam. Kết quả là từ nay Trung Quốc
có tư thế để đòi chủ quyền lãnh hải từ bờ biển Quảng Đông tại Vỹ Tuyến 22 xuống
tới vùng biển Quảng Ngãi tại Vỹ Tuyến 15 nghĩa là toàn thể Quần Đảo Hoàng Sa.
2. Cũng theo Họa Đồ
(Figure 1 nói trên), giới tuyến Thềm Lục Địa Pháp Lý 200 hải lý (Vietnam
200M) theo hướng Bắc-Nam, chạy song hành với bờ biển Việt Nam, từ Vỹ Tuyến 16
(Đà Nẵng) xuống Vỹ Tuyến 7 (Bãi Tứ Chính: Vanguard) dọc theo Kinh Tuyến 112
Đông.
Địa hình này xác nhận rằng Thềm Lục Địa Việt Nam chỉ khởi sự từ
Vỹ Tuyến 16 (Đà Nẵng) xuống Vỹ Tuyến 7 phía đông nam Cà Mâu. Do đó nó mặc nhiên
nhìn nhận rằng ngoại trừ đảo Tri Tôn tại Vỹ Tuyến 15.47 Bắc, vùng hải phận từ Vỹ
Tuyến 16 trở về Bắc, trong đó tọa lạc 12 đảo Hoàng Sa, không thuộc chủ quyền
lãnh hải của Việt Nam.
Theo hiểu biết thông thường, nếu không có Thềm Lục Địa thì
không có lục địa. Nếu không có lục địa thì không có hải phận. Mà nếu không có
hải phận thì cũng không có các hải đảo tọa lạc trong đó.
Trong cả hai trường hợp do Chính Phủ Hà Nội viện dẫn về Thềm Lục
Địa Mở Rộng và Thềm Lục Địa Pháp Lý, Việt Nam đã khước từ chủ quyền ít nhất 12
hải đảo thuộc Quần Đảo Hoàng Sa tọa lạc tại các Vỹ Tuyến 17 và 16 Bắc từ Quảng
Trị xuống Quảng Nam. (Đảo Hoàng Sa có vỹ độ 16.32 Bắc; đảo Phú Lâm có vỹ độ
16.50 Bắc).
Đây là một Thảm Họa cho Việt Nam. Và là một Đại Thắng của Đế Quốc Đại Hán.
Tất cả những phản ứng đạo diễn của Bắc Kinh và Hà Nội nằm trong
chiến thuật hỏa mù để đánh lạc dư luận quần chúng và đánh lừa dân tộc Việt Nam.
Vì như ai cũng biết cho đến nay, Bắc Kinh vẫn nằng nặc đòi chủ quyền hơn 80%
hải phận Biển Đông Nam Á mà họ gọi là Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc.
Chúng tôi kêu gọi các bậc thức giả tham gia ý kiến về vấn đề
này.
Thay Mặt Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền
Luật sư Nguyễn Hữu Thống
(13-5-2009)
Figure 1 Outer limits of the Vietnam’s extended continental shelf: North Area (VNM-N)
|