Võ Ngọc Can
Thời
gian gần đây mọi người đều nói và viết rất nhiều về dự án khai thác
quặng mỏ Bô xít trên Tây Nguyên được coi là chủ trương lớn của đảng
cộng sản và nhà nước Việt nam. Dự án đã làm tuôn chảy rất nhiều mực của
các nhà nghiên cứu, của các chuyên gia khoa học và các tướng lãnh trong
quân đội cùng mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam. Những thiệt hơn về kinh
tế, môi trường, quốc phòng và văn hóa trong việc khai thác được bàn đến
rất chi tiết để kêu gọi đảng và nhà nước ngưng ngay dự án khai thác
quặng mỏ này. Dự án cũng đang và sẽ làm chảy nhiều nước mắt của cư dân
bản địa đã sống trên Tây Nguyên nhiều ngàn năm nay. Họ không khóc về
những những thiệt hại hay quyền lợi kinh tế đang bị đe dọa nhưng khóc
cho nền văn hóa truyền thống của họ sắp bị bức tử. Văn hóa bị bức tử
thì chủ nhân của nó cũng sẽ chết.
Từ bài học cồng chiêng
Khi
nói đến cồng chiêng người ta liên tưởng ngay đến các cộng đồng sắc tộc
thiểu số Ba-na, Jrai, Sê-đăng, Ra-đê, Mơ-nong, Kơ-ho……cư trú trên Tây
Nguyên miền Trung Việt Nam với những nghi thức thờ cúng bao trùm bởi
tiếng cồng chiêng hùng tráng. Trước đây rất ít người Kinh biết về các
cộng đồng sắc tộc này vì họ sống cách biệt trong núi rừng bao la với
một nền văn hóa truyền thống đặc thù cùng tiếng nói hoàn toàn khác lạ
với cộng đồng người Kinh. Theo dòng chảy của lịch sử cùng với sự ồ ạt
di dân lên Tây Nguyên khai thác làm ăn, người Kinh bắt đầu biết và nói
đến các cộng đồng sắc tộc thiểu số này qua sự cộng sinh và cọ xát văn
hóa. Đêm đêm trong màn sương mù bao phủ núi rừng, vang vọng lại những
âm điệu cồng chiêng âm trầm huyền bí, chúng len lỏi lách mình trong
rừng sâu như phát ra từ những thân cây cành lá, chúng bay lượn trên mặt
suối để rồi dội lên rất rõ nét như tiếng nói của thần linh, như tiếng
rầm rì nhắc nhở của tổ tiên. Cồng chiêng và lễ hội truyền thống gắn bó
với nhau thành một cho đến muôn đời. Tách rời chúng ra sẽ tạo thành
những màn diễn lố bịch thiếu tố chất linh hồn văn hóa.
Sau khi
thống nhất đất nước các chính quyền địa phương được điều hành bởi những
chiến sỹ cách mạng, những du kích quân gan dạ anh hùng trong chiến trận
nhưng rất nghèo về nhận thức. Họ đã chà đạp lên văn hóa truyền thống
của những cộng đồng thiểu số với những chỉ đạo mù quáng thiếu hiểu biết
và vô văn hóa. Những ngăn cấm cử hành nghi thức tín ngưỡng, phong tục
truyền thống, được ban ra cùng với những bài học về văn hóa mới nghèo
nàn lạ lẫm được diễn giải theo cảm tính cá nhân đậm nét « Kinh », nhiều
người cho rằng việc cử hành nghi thức cúng tế theo tín ngưỡng dân gian
truyền thống từ bao đời nay là mê tín dị đoan và thay vào đó là những
bài học về đạo đức cách mạng, văn hóa cách mạng được dạy dỗ khắp nơi.
Chỉ trong không đầy bốn năm sau ngày giải phóng, tiếng cồng chiêng của
các cộng đồng sắc tộc thiểu số được vun quén gìn giữ nhiều ngàn năm đã
hoàn toàn câm nín trong uất ức nghẹn ngào.
Đời sống kinh tế của
các cộng đồng Tây Nguyên gặp nhiều khó khăn, hình thức trồng trọt nương
rẩy bị ngăn cấm vì cho đó là phá rừng là hủy diệt môi trường thiên
nhiên. Nhưng ngẩm lại mà xem, người Tây Nguyên đã nhiều ngàn năm sống
và làm nương rẩy nhưng rừng vẫn còn nguyên thậm chí càng ngày càng xanh
đẹp, trái lại chỉ sau hơn 10 năm thống nhất đất nước, rừng Tây Nguyên
đã bị tàn phá khủng khiếp đến độ lên Tây Nguyên ngày nay, muốn thấy
rừng phải đi xe ô-tô nhiều giờ mới thấy những mảng rừng còi cọc bệnh
hoạn. Những bộ cồng chiêng trong văn hóa truyền thống là của quý, là
nhịp thở của văn hóa, là di sản của ông bà lại bị cấm không được dùng,
những nghi thức tín ngưởng cũng bị cấm, cồng chiêng trở thành mớ đồng
nát vô giá trị, người Tây Nguyên đã bán cho những người mua ve chai để
đổi lấy vài chục ký gạo. Không phải vì gạo, vì lương thực, vì đói mà
người sắc tộc đã bán cồng chiêng của mình. Trong suốt nhiều năm tháng
trước đây, họ đã từng đói vì mất mùa, vì hạn hán nhưng chưa ai nghĩ đến
việc bán cồng chiêng để ăn. Ngày nay trong rất nhiều làng không còn đến
một bộ chiêng để đánh trong những dịp tang ma, lễ hội.
Những
sai trái của chính quyền Việt Nam được kịp thời sửa chữa với luật di
sản văn hóa số 28/2001/QH10 được ra đời nhằm bảo vệ di sản văn hóa quốc
gia. Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa X, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2001. Bốn năm
sau, vào ngày 15/11/2005 không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại.
Nhưng buồn thay và tủi nhục thay ! Người Tây Nguyên đâu còn chiêng và
cồng để tấu lên ca khúc khải hoàn đón mừng quyết định của Unessco. Món
quà tinh thần vinh dự này dành cho các cộng đồng trên Tây Nguyên như
những viên kim cương chiếu sáng lóng lánh tặng cho một người đang hấp
hối. Tuy có trễ nhưng chưa phải là tuyệt vọng nếu chính quyền Việt Nam
và những người có trách nhiệm biết nhận thức và tìm mọi cách để phát
huy lại truyền thống văn hóa của người Tây Nguyên như nó vốn có chứ
không phải những kịch bản được dàn dựng đạo diễn bởi ban tổ chức đây
đó.
Khai thác bô-xít là bóp chết nền văn hóa Tây Nguyên
Văn
hóa Tây Nguyên không chỉ là cồng với chiêng nhưng là một trải dài mút
ngàn của một nền văn hóa truyền khẩu giữa núi rừng trùng điệp. Lịch sử
và văn hóa Tây Nguyên là rừng, là thiên nhiên. Không một con suối nào
chảy trên Tây Nguyên không có tên gọi. Không một mảng rừng nào trên Tây
Nguyên không có gắn bó liên hệ với đời sống đời thường và tín ngưỡng
truyền thống của những cộng đống sống gần nơi ấy. Trong những lời khấn
cầu của các cư dân núi rừng người ta thường nghe nhắc đến tên những con
suối dòng sông mà tổ tiên ông bà đã một lần cư ngụ và được thần linh
của những con nước này che chở độ trì. Qua những bài đọc khi cúng và
lời của chúng, người Tây Nguyên có thể nhận ra nhau cùng chung nguồn
gốc ông bà.
Núi và rừng là những di chỉ, những
vết tích của văn hóa Tây Nguyên. Bàng bạc khắp nơi tên những ngọn núi
là danh xưng của một nhân vật oai phong hay tên những thần linh trong
kho tàng chuyện kể truyền khẩu dân gian hay trong niềm tin tín ngưởng
truyền thống. Xóa bỏ núi và rừng là giết chết văn hóa truyền khẩu vốn
là phương tiện duy nhất của người Tây Nguyên khi nói về mình. Đến huyện
Sa Thầy thuộc tỉnh Kontum người ta sẽ nghe kể về truyền thuyết của dòng
họ Rơcăm lớn và nhỏ qua ngọn núi Nang Mrai. Bên dòng thác Ia Ly, tiếng
nước chảy sẽ kể cho ta nghe về câu chuyện người Chăm lên Tây Nguyên.
Qua địa bàn cư trú của người Jrai, không người Jrai nào không biết về
thiên tình sử của nàng H’Điu bên con suối Ia Lanh và Ia Lo. Nhưng buồn
thay ngày nay người Kinh đã đến khai thác đá hai bên bờ suối và không
bao lâu nữa tên nàng H’Điu được nhắc đến nhưng vết tích của thiên tình
sử này đã thành những viên đá làm móng để xây nhà. Gần làng Plơi Hơdip
có dòng nước mang tên một cô gái từ trời xuống tắm, nàng H’bia, bên bờ
có tảng đá tựa giống thân hình của nàng. Xuống phía Nam Pleiku không
người Jrai nào không biết đến ngọn núi H’Grông, nơi cư ngụ của vị thần
Dăm Dua, thần của sức mạnh và bình an. Ngọn núi nhỏ này được mọi người
coi như là cái rốn của mặt đất. Đến vùng đất người Ra-đê không ai không
biết vết tích của một chiếc hang từ đó loài người chui lên. Qua vùng
đất của người Mơ – Nông, người Kơ -ho nơi nào cũng ghi dấu văn hóa của
họ. Khi diễn kể cho con cháu nghe, người kể nói rỏ tên gọi và nơi xảy
ra câu chuyện, qua đó tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, những
vết tích thiên nhiên trong kho tàng truyền khẩu luôn được bảo vệ và tôn
trọng. Văn hóa truyền khẩu Tây Nguyên với thiên nhiên núi rừng Tây
Nguyên là một đôi bất khả phân ly.
Dự án khai thác bô xít sẽ
xóa sạch núi rừng và sông suối đồng thời xóa sạch vết tích của nền văn
hóa truyền khẩu của dân tộc Tây Nguyên. Cách đây vài năm dự án có tầm
cở quốc gia được viện văn hóa dân gian khai triển và thực hiện là sưu
tầm những sử thi của các cộng đồng sắc tộc thiểu số trên Tây Nguyên,
sưu tầm để làm gì nếu sau đó chính nhà nước lại xóa đi các dấu vết của
những sử thi đó đang tồn tại trong thiên nhiên, trong núi rừng. Một
việc làm tiền hậu bất nhất. Một quyết định vô nhân tâm. Máu chảy ruột
mềm, nếu ai đó đến phá sập những đền đài, những di tích văn hóa của
người Kinh thì liệu rằng dân tộc Kinh sẽ chấp nhận chăng. Người Tây
Nguyên không có những đền đài dinh thự to lớn, không có những ngọn tháp
kiên cố hùng vĩ nhưng họ có cả một không gian Tây Nguyên bao la rộng
lớn khắc ghi lịch sử và nền văn hóa của họ. Xóa sổ núi rừng, lật tung
cày xới đất để tìm quặng nhôm là giết chết văn hóa Tây Nguyên.
Đọc
lại luật di sản văn hóa người ta sẽ thấy vùng đất Tây Nguyên sắp bị
chiếm dụng để khai thác quặng mỏ bô xit là vi phạm hiến pháp và pháp
luật của nhà nước Việt Nam :
Điều 13, khoản 2 ghi rỏ nghiêm cấm : « Huỷ hoại hoặc gây nguy cơ huỷ hoại di sản văn hoá »
Điều 13, khoản 3 ghi rỏ nghiêm cấm :
« Đào bới trái phép địa điểm khảo cổ; xây dựng trái phép, lấn chiếm đất
đai thuộc di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh »
Điều 15, khoản 2 ghi rỏ các tổ chức :
« Thực hiện các biện pháp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;
thông báo kịp thời cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp
di sản văn hoá có nguy cơ bị làm sai lệch giá trị, bị huỷ hoại, bị mất »
Điều 72 : Người
nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định của pháp luật về
di sản văn hoá thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ
luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật.
Dự án khai thác bô xit
thật sự là chiếc mồ chôn lấp những vết tích văn hóa của người miền núi
và sẽ không bao giờ con người có thể thay Tạo Hóa tạo dựng thiên nhiên
như củ. Người Tây Nguyên chưa lên tiếng vì họ không có phương tiện để
tiếp cận thông tin vốn đã được bưng bít, cấm đoán ở Việt Nam. Nhưng
chiếc kim trong bọc lâu ngày sẽ lòi ra, chính quyền và đảng cộng sản
Việt Nam sẽ phải trả lời mặt đối mặt với các cư dân bản địa về những
quyết định trên vận mạng và dân tộc của họ. Hảy dừng ngay dự án khai
thác bô xit khi còn chưa trễ.
Võ Ngọc Can
|