Ngô Nhân Dụng
Vụ
trang điện tử www.vietnamchina.gov.vn khiến nhiều người Việt trong nước
đặt nhiều câu hỏi. Thứ nhất, không biết tại sao chính quyền Cộng Sản
nước ta lại để cho một website bằng tiếng Việt của Bộ Công Thương Hà
Nội đăng những lập trường của chính phủ Bắc Kinh về Hoàng Sa Trường Sa
ngược lại với quyền lợi tổ quốc? Thứ nhì, tại sao đảng Cộng Sản Việt
Nam lại phản ứng lúng túng và yếu ớt như vậy? Hôm nay thử bàn về câu
hỏi thứ nhất.
Một giả thuyết trả lời cho câu hỏi này, cho đây là
một lầm lẫn vì vô ý, sơ hở. Thứ Trưởng Bộ Công Thương Bùi Xuân Khu nói
với báo Tuổi Trẻ rằng việc “quản lý thông tin” của trang web này “có lỗ
hổng.” Thường chỉ vì vô tình người ta mới để lộ ra những lỗ hổng như
thế. Cho nên, mới có những thông tin “nhậy cảm” nó vào được - hai chữ
“nhậy cảm” là lời ông thứ trưởng. Cái lỗ hổng của Bộ Công Thương đã bị
các đồng chí Trung Quốc lợi dụng, dùng nó làm nơi khua môi múa lưỡi
tuyên truyền cho chính sách hải phận của nước đàn anh, chỉ vì các cán
bộ Cộng Sản gốc Việt không ai thấy các trò múa máy đó là nhậy cảm cả!
Một
cách trả lời khác là các quan chức Cộng Sản cố ý để cho các cán bộ
tuyên truyền của Cộng Sản Trung Quốc sử dụng cái lỗ hổng trong Bộ Công
Thương mình. Nếu họ không cố tình cộng tác với Trung Quốc thì chắc chắn
ngay sau khi xuất hiện những lời lẽ xúc phạm đến chủ quyền của đất nước
ta, các quan chức, cán bộ người Việt phải thấy và phản ứng ngay. Phản
ứng cách nào không biết, nhưng phải có phản ứng. Can đảm thì trực tiếp
phản đối người Trung Quốc. Ít nhất họ phải báo cáo với cấp trên để xin
chỉ thị nên làm gì, chứ không thể im thin thít mãi, cho đến khi dư luận
cả nước vang ầm lên thì các quan mới nhìn ra cái lỗ hổng. Thái độ im
lặng của họ, nhìn thấy lỗ hổng mà không làm gì cả, tức là họ cố ý để
chuyện đó xẩy ra, dùng một diễn đàn của chính quyền nước Việt làm loa
tuyên truyền nhậy cảm cho Cộng Sản Trung Quốc.
Nhưng cũng không
chắc là các quan chức Bộ Công Thương phụ trách trang web phản quốc này
cố ý làm tay chân cho các đồng chí Trung Quốc. Họ có thể không vô tình
mà cũng không cố ý, mà chỉ “vô cảm” mà thôi. Họ đọc mà không biết,
không thấy những lời lẽ tuyên truyền của chính phủ Bắc Kinh là trái
ngược với quan điểm mà chính phủ Hà Nội vẫn công bố về chủ quyền của
Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hoặc biết mà không
thấy đó là một chuyện lạ. Hoặc thấy lạ nhưng không thấy cần phải làm gì
cả. Có thể họ cũng biết các bản tuyên ngôn chính thức của chính quyền
Hà Nội thường không có giá trị gì cả, mà chắc chắn là vô giá trị đối
với các đồng chí Trung Quốc. Biết như vậy rồi thì họ phản ứng làm cái
gì? Vừa mệt xác mà lại có thể gây rắc rối cho cá nhân mình?
Chuyện
rắc rối cá nhân có thể xẩy ra lắm. Vì quyết định hợp tác giữa hai chính
phủ Bắc Kinh và Hà Nội trong việc làm cái mạng lưới chung này là do
quyết định từ cấp cao nhất. Năm 2006 Chủ Tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Ðào
sang Hà Nội đã cùng với Tổng Bí Thư Cộng Sản Việt Nam Nông Ðức Mạnh ký
kết nhiều hiệp ước, trong đó có việc làm cái mạng web chung này. Khi
người Trung Quốc được trao toàn quyền làm bản tin bằng chữ Việt, tức là
hai bên đồng chí đã hoàn toàn tin tưởng nhau, giống như anh này giao
con gái của mình cho anh kia quản lý, tình nghĩa “trước là đồng chí sau
là anh em” được thể hiện từ trên cấp cao nhất. Bây giờ tưởng tượng có
một anh công chức hay cán bộ trong Bộ Công Thương đọc bản thông tin do
người Trung Quốc phụ trách cảm thấy chướng, rồi gọi điện thoại hay viết
thư phản đối! Có anh, chị nào dám làm công việc ấy không? Bố bảo cũng
không dám. Im lặng là vàng, hoặc ngậm miệng ăn tiền là chiến lược chắc
ăn nhất.
Có ai nghĩ đến chuyện làm báo cáo nộp lên cấp trên nêu
thắc mắc tại sao các bản tin này hoàn toàn phủ nhận chủ quyền của nước
Việt Nam trên các quần đảo nhậy cảm hay không? Chỉ báo cáo không thôi,
dù không dám đề nghị điều gì về các hành động ngang ngược đó, cũng đủ
mang tội, mất chức như chơi rồi. Ðảng có thể buộc anh ta vào tội thọc
gậy bánh xe “phá hoại tình đoàn kết” giữa hai nước đồng chí anh em mà
Hồ Chí Minh đã mất công gây dựng từ nửa thế kỷ nay.
Liệu đảng
Cộng Sản Trung Quốc có thể làm mất chức một cán bộ chính quyền Cộng Sản
Việt Nam được hay không? Trong quá khứ chuyện đó đã xẩy ra nhiều lần.
Nổi tiếng nhất là vụ ông Nguyễn Cơ Thạch mất chức bộ trưởng ngoại giao,
mất cả chân đứng trong trung ương đảng, chỉ vì bị Cộng Sản Trung Quốc
phủ quyết. Hồi ký của ông Trần Quang Cơ cho biết có lúc đại sứ Trung
Quốc ở Hà Nội không thèm nói chuyện với bất cứ ai ở Bộ Ngoại Giao của
Cộng Sản Việt Nam. Họ coi như không có cái bộ ấy. Chính phủ Trung Quốc
không bao giờ thèm nói chuyện với ông đại sứ người Việt ở Bắc Kinh. Họ
cho đại sứ của họ ở Hà Nội làm việc trực tiếp với các tay chỉ huy cao
nhất trong Bộ Chính Trị. Từ khi thấy tấm gương Nguyễn Cơ Thạch, các
quan chức Việt Nam không ai muốn làm mất lòng các đồng chí Trung Quốc
nữa.
Ngày xưa đến Hồ Chí Minh cũng còn phải chịu thua, cúi đầu
nghe lệnh các cố vấn “vĩ đại” dù đám này chỉ là những cán bộ cấp thấp
trong hàng ngũ Cộng Sản Trung Quốc. Khi các cố vấn phát động đấu tố địa
chủ, Hồ Chí Minh muốn xin tha cho bà Nguyễn Thị Năm vì bà đã đóng góp
nhiều tiền bạc cho kháng chiến và cứu giúp nuôi nấng nhiều cán bộ Cộng
Sản Việt Nam cao cấp. Nhưng khi các cố vấn vĩ đại không đồng ý thì
“Bác” cũng đành chịu bó tay. Tấm gương đó đến nay vẫn còn được noi
theo. Trừ lúc các lãnh tụ đảng bỏ Bắc Kinh để theo Mát Cơ Va thì không
kể, còn khi họ đã nhất quyết theo Trung Cộng thì từ trên xuống dưới
phải “nhất trí” với nước bạn.
Tinh thần “nhất trí” và “trước sau
như một” đó từ đời Hồ Chí Minh truyền đến đời Nông Ðức Mạnh, chỉ có một
thời gián đoạn khi Lê Duẩn “phản Trung đầu Nga” thôi. Sau khi “tổ quốc
xã hội chủ nghĩa” Nga Xô của ông Lê Duẩn vỡ tan tành thì các lãnh tụ
Cộng Sản Việt Nam, từ Ðỗ Mười tới Lê Khả Phiêu, Nông Ðức Mạnh, không có
cách nào khác là bám lấy các đồng chí Trung Quốc làm chỗ tựa.
Thực
ra họ cũng chỉ noi gương Hồ Chủ Tịch thôi, không có gì mới. Người dân
miền Bắc Việt Nam còn nhớ thi sĩ Chế Lan Viên, một công thần văn nghệ
luôn luôn minh họa đúng chính sách của đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhà thơ
này đã khóc to hơn cả Tố Hữu khi nghe tin Nguyên Soái Stalin chết. Ông
Tố Hữu chỉ “thương” ông Xít gấp mười lần tình thương dành cho cha, mẹ,
vợ, chồng thôi. Còn Chế Lan Viên là người đã từng ca ngợi Stalin khi
còn sống (Có một người đêm khuya không ngủ - Thức canh cho thế giới hòa
bình) khi nghe tin Stalin chết thì ông tưởng tượng là nhân dân cả thế
giới khóc òa ào như những đứa trẻ mồ côi: “Vạt áo nhân dân thấm đầy
nước mắt - Thế giới không cha nặng tiếng thở dài!”
Cũng chính nhà thơ Chế Lan Viên đã viết những bài ca ngợi Mao Chủ Tịch, trong đó có hai câu lục bát bất hủ:
Bác Mao không ở đâu xa Bác Hồ ta đó chính là bác Mao
Ông
Chế Lan Viên nhìn ông Hồ mà thấy hình ảnh ông Mao! Nghe ông Hồ nói thấy
đúng là ông Mao nói! Mao nghĩ cái gì Hồ nghĩ cái đó, vì chính Hồ Chí
Minh đã tuyên bố với một nhà báo Pháp rằng ông không cần viết sách; lý
do là những điều nào cần viết thì đã có Mao Chủ Tịch viết hết sạch cả
rồi! Ông Hồ đã tự thú nhận là một người không cần suy nghĩ vì đã có cái
đầu của ông Mao làm công tác lao động đó thay cho mình. Một người tư
duy bằng đầu người khác, đó là một hiện tượng hiếm có. Nhưng phải có
thiên tài nịnh bợ của một nhà thơ như Chế Lan Viên thì mới làm nổi bật
đức trung thành của ông Hồ đối với Mao Chủ Tịch: “Bác Hồ ta đó chính là
Bác Mao!”
Khi Chế Lan Viên viết những câu thơ này thì Hồ Chí
Minh vẫn còn sống. Nếu nghe câu thơ đó mà mắc cỡ hay khó chịu, thì ông
Hồ đã cấm phổ biến. Nếu ông Hồ hoặc Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam
không đồng ý những lời lẽ xu nịnh này, thì cuộc đời Chế Lan Viên đã
“điêu tàn” từ lâu rồi. Vì đây là những lời diễn tả cả chính sách, chủ
trương của đảng! Nhưng hai câu thơ đó đã được phổ biến cho toàn thể dân
và quân đội miền Bắc Việt Nam đọc, Chế Lan Viên vẫn nhận được những
bổng lộc của chế độ cho tới hết đời. Tức là ông Hồ nghe câu thơ như vậy
mà không thấy ngượng. Ðảng Cộng Sản Việt Nam hoàn toàn đồng ý với thi
sĩ. Có thể ông Hồ còn hãnh diện vì được đem ra so sánh với ông Mao,
người lèo lái lịch sử!
Cho nên toàn thể các đảng viên đảng Cộng
Sản Việt Nam đã được học thuộc lòng hai câu thơ ca ngợi bác Mao của Chế
Lan Viên mà thi sĩ nhân tiện còn nịnh bợ cả bác Hồ- một câu thơ nâng
hai con chim. Tâm lý của những đảng viên đọc hai câu thơ này đã được
uốn nắn theo lời thơ, ý thơ. Nếu Bác Hồ chính là Bác Mao thì Bộ Ngoại
Giao Bắc Kinh cũng chính là Bộ Ngoại Giao Hà Nội, có khác gì đâu? Hoàng
Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc hay thuộc Việt Nam thì cũng một nhà cả!
Từ
thời Hồ Chí Minh cho đến năm 1976, đảng Cộng Sản Việt Nam không cần mệt
sức suy nghĩ. Vì đã có những cái đầu ở Bắc Kinh nghĩ giúp. Sau một thời
kỳ phiêu lưu của Lê Duẩn làm chết mấy trăm ngàn thanh niên Việt Nam ở
Campuchia và biên giới Trung Quốc, hai mươi năm sau đảng Cộng Sản Việt
Nam lại trở về chính sách do “Bác Hồ” chỉ đường. Các cán bộ ở Bộ Công
Thương không cần suy nghĩ gì khi thấy có những bản tin “chửi cha” chủ
quyền của nước Việt Nam trên các quân đào Hoàng Sa và Trường Sa. Vì
trong đầu còn văng vẳng khẩu quyết “Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao!” Cái
óc nô lệ đó trở thành một tập quán không bỏ được, vì đã được các đảng
viên học tập từ thời cải cách ruộng đất tới nay.
Trong các hình
thức nô lệ, không có gì đón mạt bằng nô lệ về tư tưởng. Ông Hồ Chí Minh
đã coi ông Mao Trạch Ðông như người suy nghĩ giúp mình, để chính ông
không cần suy nghĩ nữa. Ông không đỏ mặt ngượng ngùng khi có thi sĩ
người Việt khẳng định “Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao!” Cái đức nô lệ đó
đã được ông Hồ truyền xuống cho đến các lãnh tụ Cộng Sản bây giờ. Biết
đâu hiện giờ cũng có những nhà thơ ở trong nước đang chuẩn bị viết
những câu như “Bác Mạnh ta đó chính là bác Hồ Cẩm Ðào!” Hoặc là “Chú
Dũng ta đó cũng chính là chú Ôn Gia Bảo!”
Trong không khí đó,
biến cố xẩy ra ở cái website của Bộ Công Thương là chuyện nhỏ. Khi nào
gột rửa được óc nô lệ thì sẽ không lo chuyện đó xẩy ra nữa. Khi đó, khi
một công chức Việt Nam đọc bản tin trên mạng lưới thấy nó tuyên truyền
cho Cộng Sản Trung Quốc ngược lại với nước mình thì họ phản ứng ngay
lập tức! Họ sẽ nói: Không được! Không được! Và họ sẽ tự động phản đối
các công chức người Trung Quốc mà không cần phải xin phép ai cả. Bởi vì
tại sao phải xin phép? Một người quen sống tự do sẽ hỏi: Yêu nước mà
cũng phải xin phép là thế nào? Yêu nước mình tại sao phải xin phép
người nước khác?
Muốn tập cho các cán bộ, đảng viên đảng Cộng
Sản thói quen suy nghĩ tự do sẽ phải mất rất nhiều thời gian. Công phu
huấn luyện của Hồ Chí Minh bao nhiêu năm, cũng phải mất một thời gian
dài bấy nhiêu mới tẩy rửa được. Nhưng không phải vì việc khó mà không
làm. Không phải vì chậm trễ mà để cho chậm hơn nữa!
Ngô Nhân Dụng
|