nguồn: Diendan.org
Bùi
Trọng Liễu
Theo
báo Thanh
Niên điện tử ngày
12/5/2009, bộ Giáo dục Đào tạo
cho rằng “Môn Giáo dục
công dân
phải gắn với thực tế cuộc sống”
1
Một
nhà báo có nhã ý hỏi ý
kiến tôi về môn học Giáo dục
công dân này; tôi không thể từ
chối, nên đã trả lời tóm
tắt ngắn gọn. Dưới đây là
nội dung rộng của ý kiến của tôi
về vấn đề này.
1.
Môn Giáo dục công dân trong trường
học, nói chung :
Đây
là môn học “tế nhị” vì
nó không mang tính “nội tại”
(intrinsèque).
Tôi nói chung cho cả mọi
nước. Nó không phải chỉ là
vấn đề của nhà trường; nó
liên quan đến khung cảnh tổ chức
xã hội, đến thể chế, đến
quốc giáo (thần tiên hay trần tục),
đến mức sống ngoài đời, và
trong nhà trường, nó cận kề đến
những môn như sử học, vv. Ngay cả
những khái niệm về luân lý cơ
bản (kính người già, bênh vực
nguời yếu, tránh sự hung bạo, vv.)
cũng không thể hoàn toàn tách
rời ra khỏi khung cảnh của xã hội
: thí dụ, như sự kích động
đấu tố, dị biệt, khi được
chính thức khuyến khích, hoặc khi mức
sống ngoài đời quá chênh lệch,
đẩy một số người vào cảnh
vì quá nghèo nàn mà biến
thành đạo tặc, hoặc khi gia đình
từ nhiệm đối với con em của mình,
hoặc khi nạn tham nhũng tràn lan ngay cả
ở cấp cao làm gương xấu hàng
ngày, có thể làm cho con người
vượt ra khỏi cái luân lý đó.
Huống hồ, Giáo dục công dân còn
phải đề cập đến những vế
xa hơn như những khái niệm về tự
do, dân chủ, nhân quyền, vv.
Tuy
vậy, dù khẩu hiệu “học gắn
với hành” đang ở trạng thái
nói suông, thà rằng có một
chương trình nghiêm chỉnh cho môn
học này, còn hơn là luộm thuộm
thả lỏng làm cho con người mất
hết mọi mốc để định hướng;
tôi muốn nói là thà học “chay”
còn hơn không học. Cũng cần tin
tưởng là trong xã hội nào, dù
thối nát, cũng vẫn còn những
người “tử tế”.
2.
Sơ lược về môn học này tại
Pháp :
Nói
rất tóm tắt, chương trình ở
Pháp hiện nay là :
-
Ở các lớp Tiểu học (tương
đương với các lớp 1,2,3,4,5) có
môn học gọi là “Giáo huấn
công dân và luân lý”
(Instruction civique et
morale).
-
Ở các lớp Trung học cơ sở (tương
đương với các lớp 6,7,8,9) có
môn học gọi là “Giáo dục
công dân” (Education
civique).
-
Ở các lớp Trung học phổ thông
(tương đương với các lớp
10,11,12, có môn học gọi là “Giáo
dục công dân, pháp lý và xã
hội” (Education civique,
juridique et sociale).
Tôi
dẫn vài điểm trong chương trình
tiểu học để làm thí dụ:
một trong những mục tiêu là dạy
cho trẻ em những qui tắc về lễ độ
và cách xử sự trong xã hội ;
tập dần dần tiến tới cách biết
tự hành xử trong sự hòa nhập
vào cuộc sống chung của tập thể,
vv.
Cũng
xin dẫn vài điểm trong chương trình
trung học để làm thí dụ : có
8 khái niệm được đề cập
đến như tự do, bình đẳng, chủ
quyền, công bằng, lợi ích chung, an
ninh, tinh thần trách nhiệm, đạo đức.
Nhưng nước Pháp là nước tư
bản, theo tam quyền phân lập, đa đảng,
bàu cử tương đối tự do, có
khả năng thay thế cầm quyền
(alternance), nhưng lại có chính quyền
tập trung; tuy theo nền kinh tế thị trường,
nhưng Nhà nước can thiệp điều
chế khi cần thiết, (dùng ngân quĩ
do thuế của dân) gánh hỗ trợ về
mặt xã hội (trợ giúp các gia
đình có thu nhập thấp), cáng
đáng giáo dục (không chấp nhận
giáo dục là hàng hóa thuận
mua vừa bán, trường công lập miễn
phí là chính, trường tư thục
đóng vai hỗ trợ, xa lạ với vấn
đề cổ phần hóa trường học).
Pháp lại có quá khứ lịch sử
về cuộc Cách mạng 1789, nên nhạy
cảm về vấn đề nhân quyền, tự
do báo chí, tự do tín ngưỡng,
vv. Cho nên cách diễn giải các khái
niệm nói trên cũng không phải là
nước nào cũng áp dụng được,
đặc biệt là các nước có
thể chế chuyên chế.
3.
Vài suy nghĩ về môn học này ở
Việt Nam
Trước
khi đề cập đến tình hình
hiện nay, tôi muốn nhắc lại chút
lịch sử nước nhà, nhìn qua lăng
kính chủ quan của tôi. Từ thời
đại tự chủ, kể từ các triều
đại Ngô, Đinh, Tiền-Lê, Lý,
Trần, Lê, Nguyễn, trước khi bị
Pháp đô hộ, những quan niệm về
đạo đức xã hội chịu ảnh
hưởng của Khổng học rất là
nặng. Nhưng nói chung, các vị vua khai
lập triều đại và những quần
thần phò tá đều có tinh thần
trách nhiệm cao. Mỗi khi dòng họ trị
vì bị tha hóa, thì xã hội coi
sự thay đổi triều đại là
việc chính đáng. Lễ giáo
Khổng Mạnh, có mặt dở mặt hay : cản trở tiến hóa và o ép
con người 2,
nhưng những “nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín”, “dân vi quí”, và “tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị
tri” 3,
vv. cũng một thời đáp ứng được
trật tự xã hội, nền tảng gia
đình, đạo đức làm người.
Ở các đời thịnh trị, chính
quyền cũng biết nghiêm cấm, ngăn
ngừa các tệ nạn xã hội như
cấm rượu chè be bét, ăn tục
chửi thề, mê tín dị đoan, trừng
trị kẻ tham nhũng, bảo đảm cho
lương dân một sự an ninh để
yên tâm làm ăn. Chứ một nền
giáo dục mà có người gọi
gọn là “tiên học lễ, hậu
học văn”, tự nó không đủ
để bảo đảm thái độ và
cách hành xử của con người.
Đối
với láng giềng khổng lồ phương
Bắc, sách lược “trong đế,
ngoài vương” mềm dẻo đối
ngoại nhưng bên trong đoàn kết
cương quyết giữ nước
– (trừ giai đoạn (1414-1427) nước
ta vì lòng người li tán, bị nhà
Minh xâm chiếm – cũng đã góp
phần bảo vệ được nền tự
chủ lâu dài.
Nhưng
cũng có những “bất ổn” mà
theo tôi, lẽ ra không nên có. Như
việc Văn miếu ở Hà Nội (thành
lập năm 1070), thờ Khổng tử, Chu công,
Tứ phối (Nhan tử, Tăng tử, Tử tư,
Mạnh tử) và Thất thập nhị hiền
(72 người học trò giỏi của Khổng
tử) đều là người Trung Hoa, còn
người nước ta chỉ có Chu Văn
An (đời Trần) được “thờ
phụ” ở đó 4.
Nếu coi nơi này chỉ là Khổng
miếu thì chẳng có gì đáng
nói; nhưng coi nơi này là tượng
trưng đỉnh cao cho việc đào tạo
trí tuệ cho đất nước thì
tôi nghĩ là không thỏa đáng
5.
Hoặc như Võ
miếu ở Huế xây dựng năm 1835
thời vua Minh Mạng, gồm miếu chính
thờ 12 danh tướng Trung Hoa như Khương
Tử Nha, Quản Trọng, Tôn Võ, Điền
Nhương Thư, Hàn Tín, Trương
Lương, Gia Cát Lượng, Nhạc Phi, Lý
Tĩnh, Quách Tử Nghi, Lý Thanh, Từ Đạt, còn tại miếu phụ
mới thờ 6 nhân vật Việt Nam là
Trần Quốc Tuấn, Lê Khôi, Nguyễn
Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật, Tôn
Thất Hội, Nguyễn Văn Trương 6.
Khó có thể lấy đó
làm thí dụ minh họa cho những bài
học giáo dục công dân.
Thuở
tôi còn nhỏ, lúc chưa ra Hà Nội
học trường Pháp (năm tôi lên
9), tôi có vài năm học ở trường
ta ở tỉnh. Sau này tôi còn nhớ
mãi một số bài học luân lý
thời đó. Nay tôi
đọc lại cuốn sách “Luân lý
giáo khoa thư, lớp đồng ấu”
(do các ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn
Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ
Thận soạn), tất nhiên nội dung và
ngôn ngữ sử dụng không còn phù
hợp cho ngày nay, nhưng tôi thấy cách
đặt vấn đề của các tác
giả là hợp lý. Cuốn sách gồm
các bài ngắn, dễ hiểu dễ nhớ,
tập hợp trong 3 chương: chương nhất
nói về “bổn phận” của trẻ
em trong gia đình, chương nhì nói
về “bổn phận” của trẻ em ở
trường học, chương ba nói về
tính tốt (nên theo), tính xấu (nên
bỏ) của trẻ em 7.
Từ ngữ có thể có chỗ không
phù hợp, vì thời cuộc, nhưng
hình như không thấy
có bài nào trong sách này dành
cho việc tán dương chính quyền
bảo hộ, không thấy các khẩu hiệu
sáo rỗng, hô hào suông. Rồi
ngay cả trong cuốn “Việt văn giáo
khoa thư” dành cho việc tập đọc
tập viết, những câu chuyện nhỏ
dẫn điển tích cổ, hay các bài
ngụ ngôn, Đông hay Tây, thường
cũng mang nội dung luân lý.
Trong
thời gian Toàn quốc kháng chiến chống
Pháp, tôi có học hai năm ở
truờng trung học Nguyễn Khuyến trong vùng
tự do. Nhưng do tôi học tắt, nhảy
lớp, nên chỉ nhớ mang máng là
có vài buổi học “công dân
giáo dục” 8,
nhưng không nhớ nội dung.
Rồi
đầu năm 1950, nhỉnh 15 tuổi, tôi đã
du học ở Pháp rồi định cư ở
nơi đây. Sau 5 chuyến được mời
về làm việc ở Hà Nội hoặc
thăm trong nước (1970, 1975, 1977, 1979, 1981), từ
năm 1981, do sức khỏe, đã 28 năm
tôi không có khả năng về nước
nữa.
Do
đó, tôi không theo dõi cụ thể
vấn đề giáo dục công dân
hiện nay, mà chỉ qua báo chí , và
qua nhận xét cá nhân về cách
hành xử của một số người
Việt Nam, tôi biết được là
có những bức xúc 9.
Tôi có nhiều câu hỏi hơn là
những khẳng định. Tuy nhiên, qua những
điều tôi đã phát biểu trên
đây, tôi hy vọng cũng đã góp
được một phần nhỏ gợi ý
cho một giải pháp cần thiết. Giải
pháp đó là có được
một bản chương trình môn giáo
dục công dân phù hợp và có
được các nhà
giáo
có trình độ để giảng dạy,
và đồng
thời mong có được
một sự quan tâm của toàn xã
hội.
Bùi
Trọng Liễu
1
Bản
tin của Tuệ Nguyễn, cho biết bộ Giáo dục Đào tạo (GD-ĐT) đánh giá :
“ Sách giáo khoa môn
Giáo dục công dân ở cả cấp THCS và THPT có một số
bài kiến thức nặng so với trình độ nhận thức của học sinh, một số bài
viết dài, một số bài về đạo đức trình bày quá cụ thể về kế hoạch dạy
học trên lớp làm cho giáo viên khó thực hiện việc đổi mới phương pháp
dạy học. Trong khi đó, việc kiểm tra đánh giá còn có hiện tượng nặng về
yêu cầu tái hiện kiến thức, chưa chú ý đến yêu cầu học sinh vận dụng
kiến thức để giải quyết các vấn đề, tình huống thực tế... Ông Nguyễn
Vinh Hiển, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT cho rằng: việc dạy học giáo dục công dân
trong thời gian tới phải được đổi mới theo hướng gắn với thực tế cuộc
sống, hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức đã học để phân tích, giải
quyết các tình huống, các vấn đề trong cuộc sống ”.
2
Thí dụ như “tứ đức” (công,
dung, ngôn, hạnh); “tam tòng” (tại gia tòng phụ, xuất gia tòng phu, phu
tử tòng tử); “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (có 1 con trai là có,
có 10 con gái là không có”), vv.
3
Biết thì bảo là biết,
không biết thì bảo là không biết, thế là biết.
4
Theo Đại
việt sử ký toàn thư, Cao Huy Giu phiên
dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1967.
5
Theo
một nguồn (Wikipedia): “Văn Miếu được xây dựng từ "tháng 8 năm Canh
Tuất (1070)
tức năm Thần Vũ thứ
hai đời Lý
Thánh Tông,
đắp tượng Chu
Công,
Khổng
Tử
và Tứ
phối,
vẽ tranh tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến
đấy học. Năm 1076,
Lý
Nhân Tông
cho lập trường Quốc Tử giám, có thể coi đây là trường đại học
đầu tiên ở Việt Nam.
Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý
(nên gọi tên là Quốc Tử). Năm 1156,
Lý
Anh Tông
cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng
Tử.
Đời Trần
Minh Tông,
Chu
Văn An
được cử làm quan Quốc
Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử.
Năm 1370 ông mất, được vua Trần
Nghệ Tông
cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử”.
(Tôi không có điều
kiện kiểm chứng theo nguyên bản cổ).
6
Nhắc
lại là theo bài « Võ miếu ở Huế » của Phan Thuận An,
trong « Hồn Việt » số 2, Trung tâm Nghiên cứu Quốc
học, nxb Văn Học, 2004, tr. 291-309 : Võ miếu ở Huế được bắt đầu xây
dựng vào năm 1835, thời vua Minh Mạng, đến 1836 thì xong. Tại Miếu
chính thờ 12 danh tướng Trung
Hoa sau đây : ở án chính trung, thờ Khương Tử Nha
(thời nhà Chu) ; ở án phía đông, thờ 6 nhân vật :
Quản Trọng (nước Tề thời Đông Chu liệt quốc), Tôn Võ (nước Ngô thời
Đông Chu liệt quốc), Hàn Tín (nhà Hán), Lý Tĩnh (nhà Đường), Lý Thanh
(nhà Đường), Từ Đạt (nhà Minh) ; ở án phía tây, thờ 5 nhân
vật : Điền Nhương Thư (nước Tề thời Đông Chu liệt quốc),
Trương Lương (nhà Hán), Gia Cát Lượng (nhà Hán thời Tam quốc), Quách Tử
Nghi (nhà Đường), Nhạc Phi (nhà Tống). Tại 2 Miếu phụ (Tả Vu và Hữu
Vu), thờ 6 nhân vật Việt Nam ; ở Tả Vu, thờ 3 vị :
Trần Quốc Tuấn (1226-1300, nhà Trần) ; Nguyễn Hữu Tiến
(1602-1665, thời các chúa Nguyễn), Tôn Thất Hội (1757-1789, thời Nguyễn
Ánh) ; ở Hữu Vu, thờ 3 vị : Lê Khôi
( ?-1446, nhà Lê), Nguyễn Hữu Dật (1603-1681, thời các chúa
Nguyễn) ; Nguyễn Văn Trương (1740-1810, thời Nguyễn Ánh-Gia
Long). Với binh lửa và thời gian, hiện nay, chỉ còn 10 bài vị thờ 5
nhân vật Trung Hoa (Quản Trọng, Trương Lương, Gia Cát Lượng, Lý Thanh,
Quách Tử Nghi) và 5 nhân vật Việt Nam (Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Hữu Tiến,
Nguyễn Hữu Dật, Tôn Thất Hội, Nguyễn Văn Trương). 5 bài vị thờ người
Tàu thì được sơn son thếp vàng, trang trí kỹ, đều một cỡ cao khoảng
52,5cm ; 5 bài vị thờ người Việt Nam sơ sài hơn, sơn son nhưng
không thếp vàng, cũng không trang trí gì, không cùng một cỡ, nhưng nói
chung nhỏ hơn (cao từ 47cm đến 48cm).
7
Thí dụ như bài số 49 « Tàn bạo » của cuốn sách Luân
lý giáo khoa thư đó, dạy « Tàn bạo là một tính rất xấu. Người
ta đối với kẻ hèn yếu hay giống súc vật, bao giờ cũng phải nhân từ thì
mới phải đạo ». Điều này làm tôi liên tưởng tới hai chuyện
ngày nay:
-
a/ Trong bài “Thú
rừng khóc than ở phố” của tác giả
Bùi Lương Việt đăng ngày 12/01/2008 :
“Thời
gian gần đây, liên tiếp những đường dây buôn bán động vật quí hiếm bị
triệt phá nhưng không vì thế mà thịt thú rừng lại trở lên khan hiếm
trên đất Hà thành. […]. Có
lẽ, kinh hãi nhất đối với tôi ở cái quán thịt thú rừng này là khi chứng
kiến cảnh giết thịt con cu li (có nơi gọi là con lười- một loài vật
thuộc họ hàng nhà khỉ). Nó được đưa tới chiếc bàn nhậu bằng một chiếc
lồng sắt được thiết kế khá đặc biệt, ôm gọn lấy con vật, đến nỗi nó chỉ
còn thò đúng hai tay hai chân ra bên ngoài. Con vật đưa ánh
mắt sợ sệt thò tay quềnh quào như van xin. Mặc, đám thực khách vây
quanh đưa ánh mắt vô cảm chờ đợi. Tiếng một ai đó trong bàn hô bắt đầu,
con vật bị hai thanh sắt như chiếc kìm từ từ nâng lên, một đoạn đầu nhô
ra khỏi lồng. Chai rượu trong tay gã đầu bếp đổ tràn trề trên đầu con
vật. Phập, một lưỡi dao sáng loáng lướt qua, con cu li giãy rụa. Mảnh
hộp sọ được lật ra, rượu tiếp tục đổ, đĩa chanh để sẵn trên bàn được
đám thực khách vắt vào đầu con vật, rồi rượu nâng lên. Từng người tay
cầm thìa, múc từng thìa óc con vật bỏ vào miệng như chẳng có chuyện gì
xảy ra” (trích).
Đấy
là chuyện xảy ra ở Hà thành, ở nước Việt Nam, thời nay. Tôi không rõ
những người nhậu nhẹt này, sau đó, có theo thời thượng, mua vàng mã,
hương hoa, mang cúng tế ở đền miếu với ý hối lộ cả quỉ thần, mong sau
này hồn khỏi phải xuống âm phủ không. Nhưng đó là chuyện tâm linh, tôi
miễn bàn.
-b/
Cách đây không lâu (tháng 4/2009), đài truyền hình Pháp-Đức ARTE có
chiếu một phim về quán ăn Trung Hoa lớn nhất. Đó là quán ăn Tây Hồ ở
tỉnh Hồ Nam (5000 chỗ). Ở đây, tôi không có ý quảng cáo cho quán này,
mà chỉ muốn kể đoạn phim được xem. Đó là một cuộc thi đầu bếp giỏi
nhất, mà một món thi là món cá chép rán. Các “thí sinh” phải làm con cá
rán, nửa phía đuôi con cá đã được đánh vẩy, bỏ vào chảo mỡ sôi rán chín
ròn, đổ nước sốt cà chua, và có rau thơm bày quanh, nhưng khi bưng ra,
thì nửa trên con cá vẫn còn sống, mồm vẫn còn ngáp ngáp, nếu không thì
coi là không hợp lệ. Thật là khủng khiếp. Nhưng đây là chuyện phương
Bắc, nhưng những tục phương Bắc nhập vào phương Nam, là chuyện thường
xuyên.
8
Tên gọi “ngược” theo
thời đó.
9
Tôi dẫn linh tinh một số
thông tin đọc được, như:
-
Các
vụ nữ
học sinh “đánh hội đồng”, nơi công cộng
-
Hoặc
như bài “Đừng
hỏi Bộ trưởng vì sao nhà trường thiếu nhà vệ sinh”.
-
Hoặc
như bài “Ngôn ngữ 9X:
nghe mà hãi, đọc mà kinh”, đăng ngày 24/5/2009
trên Tuần
Việt Nam.
-
Hoặc
bao nhiêu chuyện khác như những chuyện cán
bộ uống rượu trong lúc thi
hành công vụ,
-
Hoặc
chuyện kinh doanh kinh dị, nên có bài thơ nhái dưới đây :
Chinh phụ
Ngâm bị nhái :
Thuở trời đất nổi cơn khói bụi,
Tâm
với Tầm nhiều nỗi truân chuyên.
Thiên
tào thăm thẳm ngự trên,
Vì
sao gây dựng nên nông nỗi này ?
Cồng
rẻo cao lung lay khí việt,
Bụi
công trường mờ mịt bóng ngô.
Lòi
đâu ra lũ ngây ngô ?
Hay
gì mà cứ xì xồ triển khai …
|