Hà Sĩ Phu
“... Nếu vội vàng tạo lập Dân chủ nơi chính quyền trong khi chưa giành được những quyền tự do dân sự trong dân chúng thì đó là thứ Dân chủ không có gốc, nó dễ dàng trở thành phản bội ...”
Hai khái niệm Tự do ( Liberty) và Dân chủ (Democracy) xưa nay thường
được hiểu là tương tự, hoặc ít ra thì cũng rất gần nhau, theo hướng
giải phóng con người. Quả thực, trong các nước dân chủ phương Tây thì
hai yếu tố ấy cũng bện chặt vào nhau để tạo nên một nền Dân chủ - Tự do
(liberal democrcy). Hầu hết chúng ta đều hiểu Dân chủ và Tự do là hai
yếu tố biến thiên cùng chiều như một cặp bài trùng. Vì thế cũng không
ai mổ xẻ tách bạch sự khác nhau giữa hai khái niệm ấy làm gì.
Song thực tiễn chính trị đã khiến cho hai từ Dân chủ và Tự do buộc phải
được hiểu môt cách chính xác hơn (nhưng vẫn cùng chiều), rồi thật bất
ngờ, dưới bàn tay nhào nặn khéo léo của một số nhà chính trị ở một số
quốc gia, Dân chủ và Tự do không bện chặt vào nhau nữa, chẳng những rời
nhau ra mà có thể còn chống lại nhau. Từ đó hình thành và phát triển
những hệ thống chính trị Dân chủ- nhưng không Tự do (illiberal democracy).
Nhiều chính quyền được bầu lên một cách dân chủ, thậm chí
các chính quyền được bầu lại hoặc được tái xác nhận thông qua trưng cầu
dân ý, lại càng bất chấp các giới hạn quyền lực do hiến pháp qui định
và thường tước đi các quyền và những tự do căn bản của người dân.
Sự phát hiện điều nghịch lý và khái quát thành lý luận này của Fareed
Zakaria, một nhà báo, nhà triết học chính trị với vốn sống chính trị
phong phú, thuộc số những nhà trí thức hàng đầu có nhiều ảnh hưởng nhất
hiện nay [1], theo tôi là một phát kiến rất lớn, mặc dù nhiều học giả
của thế kỷ 18 và 19 cũng đã bắt đầu nhìn thấy trong Dân chủ một sức mạnh có thể gây tổn hại cho Tự do.
Thật vậy, Dân chủ trước hết và chủ yếu được hiểu là quyền làm chủ của
dân, là sự can dự của dân vào quá trình hình thành bộ máy cai trị. Khi
một quốc gia tổ chức các cuộc bầu cử đa đảng, có cạnh tranh, bộ máy cầm
quyền do lá phiếu của người dân bầu ra, không ai áp đặt, chúng ta gọi
quốc gia đó là dân chủ.
Còn Tự do, theo nghĩa truyền thống và thường được hiến định, là các quyền tự nhiên, bất khả nhượng nên còn gọi là Tự do hiến định
(constitutional liberalism), nhằm bảo vệ tính độc lập tự chủ và nhân
phẩm của con người trước những chèn ép về chính trị, xã hội, tôn giáo
và những cái khác.
Nếu muốn coi Dân chủ cũng là biểu hiện của Tự do thì đó là Tự do chính trị, còn quyền Tự do hiến định chính là Tự do dân sự;
một đằng tạo ra chính quyền, một đằng không ngừng chỉnh lý, khống chế
chính quyền ấy. Vì Tự do là nền tảng, Dân chủ là thượng tầng nên quan
hệ giữa Tự do và Dân chủ là quan hệ hầu như một chiều : Chủ nghĩa Tự do
hiến định dẫn đến Dân chủ, nhưng Dân chủ thì dường như không mang lại
chủ nghĩa tự do hiến định. Gốc nào thì quả ấy, cho nên Cái làm
thành nét đặc trưng và tạo ra sự khác biệt giữa các chính quyền tại
châu Âu và Bắc Mỹ với các chính quyền khác trên toàn thế giới không phải là dân chủ mà chính là chủ nghĩa tự do hiến định. Biểu tượng tốt nhất của Mô hình phương Tây không phải là hệ thống bầu cử đại chúng mà chính là vị quan toà không thiên vị. (Zakaria).
Nếu vội vàng tạo lập Dân chủ nơi chính quyền trong khi chưa giành được những quyền tự do dân sự trong dân chúng thì đó là thứ Dân chủ không có gốc, nó dễ dàng trở thành phản bội.
Chúng ta vẫn thường nghĩ một cách đạo đức và đơn giản rằng: sự cảnh
giác chỉ cần khi chính quyền đối lập với nhân dân, chứ khi nhân dân đã
tự gánh vác trách nhiệm thì sự thận trọng là không còn cần thiết. Xin
thưa, Alexandr Lukashenko sau khi được bầu làm Tổng thống Belarus một
cách dân chủ với đa số phiếu áp đảo trong cuộc bầu cử tự do năm 1994,
khi được hỏi về việc giới hạn quyền lực của ông ta, thì chính nhà độc
tài này đã tuyên bố Chế độ độc tài sẽ không có ở đây. Tôi thuộc về nhân dân, vì vậy tôi sẽ cống hiến vì nhân dân !
Cũng đừng tưởng rằng khi người cầm quyền do dân bầu ra mà chống lại tự
do của dân thì dân sẽ không bầu nữa. Trái lại có thể dân vẫn bầu, mà
còn bầu với số phiếu cao nữa kia! Bởi nếu những quyền tự do hiến định
không được thực hiện thì những thủ thuật để chiếm lòng dân, để tạơ sức
mạnh của số đông, để dân lại tiếp tục bầu là điều không khó khăn gì.
Đối với pháp trị, lòng tin dễ thành thuốc độc, bởi tinh thần căn
bản của luật pháp là dựa trên sự nghi ngờ. Khi đã cố xây dựng lòng tin
làm cẩm nang, làm tiên đề để điều hành xã hội thì luật pháp sẽ bị vận
dụng méo mó, sẽ mất hiệu năng và đó là mầm mống bành trướng của quyền
lực tuyệt đối.
Sau một diễn tiến Dân chủ thường tạo được lòng tin,
nhưng lòng tin lại gây mất cảnh giác nơi dân chúng và là mảnh đất phát
sinh lạm quyền, rồi sự lạm quyền sẽ quay lại chống Tự do. Con đường Dân chủ chống lại Tự do cứ khép một đường vòng như vậy. Đừng bao giờ quên rằng khi có quyền trong tay người ta có thể biến thành một người hoàn toàn khác. Chỉ trong một xã hội có Tự do dân sự vững
chắc thì sự tha hoá của quyền lực mới được kiềm chế và đường vòng phản
hồi chống dân chủ kia mới có khả năng ngăn chặn. Biết đặt sự nghi ngờ
lên trước để xử lý thì lòng tin sẽ đến theo sau.
Bằng con mắt tinh tường và với một quan điểm lý luận có hệ thống,
Zakaria đã điểm mặt những vùng địa lý chính trị, nơi nào có Dân chủ-Tự
do điển hình, nơi nào tuy chưa thật dân chủ nhưng lại có Tự do, ngược
lại nhiều nơi chưa có Tự do nhưng lại được xếp vào nước có Dân chủ…
Đặc biệt ông đã nhận ra sự trỗi dậy mạnh mẽ của xu thế Dân chủ phi Tự do
(illiberal democracy), như một lối thoát được ngụy trang rất khôn ngoan
của những chính quyền cố giữ cho được sự cai trị độc đoán trước một
trào lưu dân chủ toàn cầu không thể chống lại. Những chính quyền ở
Peru, Palestin, Sierra Leon, Slovakia, Kazakstan, Kyrgystan, Pakistan,
Belarus,… và những nhân vật chính trị như Boris Yeltsin, Alexandr
Lukashenko, Alberto Fujimori, Carlos Menem, … là những ví dụ điển hình
(khi ấy là năm 1997, sau này phải kể thêm Vladimir Putin ). Theo
Zakaria thì lúc ấy một nửa số các quốc gia đang dân chủ hoá lại là các
chế độ Dân chủ phi tự do (illiberal democracy).
Trước sự trỗi dậy của xu thế có Dân chủ nhưng không có Tự do như thế dân Việt Nam phải làm gì để khỏi sa vào?
Chính trị cũng như thị trường, chẳng qua cũng một Quy luật cung cầu chi phối cả. Có cầu ắt có cung, và thế nào cũng xuất hiện bọn cung đểu
(bọn làm hàng giả), quy luật cạnh tranh sinh tồn vốn tiềm tàng tính bất
thiện như thế. Nhân dân cần Dân chủ và Tự do ư ? (và nghĩ rằng hai thứ
đó giống nhau), thì sẽ có giới cầm quyền đứng ra nhận thoả mãn nhu cầu
ấy. Nhưng đối với giới cầm quyền thì món hàng Dân chủ có giá thành rẻ
hơn lại ít nguy hiểm hơn so với Tự do, nên họ cứ trưng cái nửa Dân chủ
ra trước đã. Nếu dân là người tiêu dùng hồn nhiên, gặp kẻ tiếp thị có
nghề là bập vào ngay. Thế là dân hoan nghênh, dân bầu ngay, tín nhiệm
ngay, rất tự giác, rất dân chủ.
Nhưng như thế là thượng đế bị sa bẫy rồi, cái bẫy có tên là Dân chủ phi Tự do! Khi cái ghế quyền lực đã đúc bê tông thì số phận cái nửa Tự do kia sẽ thế nào là chuyện hạ hồi phân giải !
Chỉ khi nào dân trí đã khôn, đã từng trải, mới biết nắm đằng chuôi, mới biết khước từ món mì chính trị ăn liền thường rất đậm đà màu sắc địa phương, mà đòi cho được quyền Tự do hiến định, tức Tự do dân sự
như dân các nước văn minh được hưởng. Điều tưởng như rất bình dị này
mới chính là sản phẩm quốc tế chất lượng cao, đã được lịch sử kiểm định
! Người khôn ngoan không đòi ngay con cá mà cố giành lấy chiếc cần câu
chính là như vậy.
Trong lúc tôi đang băn khoăn, thai nghén những ý tưởng về chủ đề này
thì may mắn thay, cùng một lúc tôi được đọc hai tài liệu cùng của
Fareed Zakaria. Một cuốn Tương lai của Tự do (The Future of Freedom) do trang mạng X-café dịch và đăng nhiều kỳ. Một bài tiểu luận "Sự trỗi dậy của các chế độ Dân chủ phi tự do" do Phạm Hồng Sơn dịch và Mai Thái Lĩnh hiệu đính (và được phép chính thức của tạp chí Foreign Affairs) . Bài tiểu luận này viết năm 1997 chính là nòng cốt để tác giả phát triển thành cuốn The Future of Freedom năm 2003.
Với những độc giả không có nhu cầu tìm hiểu rộng và chi tiết, chỉ
cần nắm được luận điểm chính và những ví dụ điển hình, tôi nghĩ đọc bài
tiểu luận “Sự trỗi dậy của các chế độ Dân chủ phi tự do” là thích hợp,
trong đó tác giả trình bày ý tưởng một cách ngắn gọn, súc tích và sắc
xảo.
Xin chân thành cảm ơn cả hai dịch giả của hai tác phẩm nói trên.Hà Sĩ Phu (Tháng 5-2009)
[1] Fareed Zakaria là một nhà báo Mỹ gốc Ấn Độ. Ông sinh năm 1964 tại
thành phố Mumbai (tên cũ là Bombay) thuộc bang Maharashtra - Ấn Độ,
trong một gia đình Hồi giáo. Cha ông là Rafiq Zakaria (1920-2005), một
học giả Hồi giáo và là một chính trị gia của Đảng Quốc Đại Ấn Độ
(Indian National Congress). Mẹ ông, Fatima Zakaria, đã có thời là biên
tập viên của tuần báo Times of India
(Thời báo Ấn độ). Sau khi học trung học tại Ấn Độ, Zakaria du học tại
Hoa Kỳ, tốt nghiệp Cử nhân (B.A.) tại đại học Yale và lấy bằng tiến sĩ
chính trị học (Ph.D. in Political Science) tại đại học Havard – nơi đây
ông được hướng dẫn bởi các vị giáo sư chính trị học nổi tiếng như
Samuel P. Huntington và Stanley Hoffmann. Ông nhập quốc tịch Hoa Kỳ vào
năm 2001.
Sau khi tham gia một công trình nghiên cứu của Đại học Harvard về chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ, Zakaria trở thành biên tập viên điều hành
(managing editor) của tạp chí Foreign Affairs
(Các vấn đề đối ngoại) và giữ chức vụ này trong 7 năm (từ năm 1993 đến
năm 2000). Tạp chí này là một tập san chuyên đề bàn về các quan hệ quốc
tế và chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, được phát hành hai tháng một lần
bởi Hội đồng về Các quan hệ đối ngoại ( Council on Foreign Relations, CFR) . Tháng 10 năm 2000, ông được bổ nhiệm làm tổng biên tập (editor) của tạp chí Newsweek International (tức ấn bản quốc tế của tạp chí Newsweek).
Với chức vụ này, ông chịu trách nhiệm trông nom các ấn bản tiếng Anh ở
hải ngoại của tờ tạp chí nổi tiếng này, được phát hành khắp châu Âu,
châu Á, châu Phi và vùng Trung Đông với trên 3 triệu ruỡi độc giả.
Ngoài nhiệm vụ đó, ông còn thường xuyên viết bài cho các tờ báo nổi
tiếng ở Mỹ như New York Times, Wall Street Journal, Washington Post, và New Republic
v.v. Ông còn cộng tác với nhiều đài truyền hình nổi tiếng như PBS
(2005-2007), ABC (2002-2007) và CNN (từ tháng 6 năm 2008). Không chỉ là
nhà báo, Zakaria còn là tác giả của một số cuốn sách nổi tiếng như: The Future of Freedom (Tương lai của Tự do, 2003) và The Post-American World (Thế giới hậu - Hoa Kỳ, 2008).
Năm 1999, tạp chí Esquire vinh danh ông là «một trong 21 nhân vật quan trọng của thế kỷ 21». Năm 2007 ông được các tạp chí Foreign Policy và Prospect xếp vào danh sách 100 nhà trí thức hàng đầu được nhiều người biết đến của thế giới. Tháng 1 năm 2009, tạp chí Forbes xếp Zakaria vào danh sách 25 nhà tự do (liberals) có ảnh hưởng nhất trong giới truyền thông Hoa Kỳ.
Bài báo “Sự trỗi dậy của nền dân chủ phi-tự do” (The Rise of Illiberal Democracy) công bố trên tạp chí Foreign Affairs vào tháng 11 năm 1997 là tác phẩm có ảnh hưởng lớn nhất của Zakaria. (Tư liệu do nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh cung cấp)
© Thông Luận 2009
|