Nguyễn Chính Kết
Hiện nay, người Việt trong lẫn ngoài nước hết sức âu lo và phẫn
nộ trước nguy cơ mất nước do Bộ Chính Trị đảng Cộng sản đang tạo rất nhiều điều
kiện vừa thuận lợi, dễ dàng, vừa hợp pháp cho Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam. Một
trong những việc làm gây tai hại khôn lường này là: bất chấp sự phản đối của người dân
Việt Nam trong và ngoài nước, bất chấp những ý kiến chống đối hết sức hợp lý
của các khoa học gia quốc nội lẫn hải ngoại, Bộ Chính Trị Đảng CSVN vẫn cương
quyết tiến hành việc cho Trung Quốc đưa công nhân của họ vào Tây Nguyên
khai thác bauxite. Điều này khiến những người có đầu óc một chút phải tự hỏi: phải
chăng Bộ Chính Trị CSVN đã ký mật ước với Trung Cộng, cho phép Trung
Cộng tự do đưa người vào Tây Nguyên với danh nghĩa khai thác bauxite? Vì đã
ký kết nên bây giờ không thể quyết định ngược lại được nữa, dù biết rằng
điều này có thể dẫn đến nguy cơ mất nước trước mắt. Còn những mật ước nào khác nữa
mà Bộ Chính Trị còn dấu diếm?
Vì đâu nên cớ sự này?
Nguyên nhân đầu tiên gây nên cớ sự này chính là bản chất
của đảng CSVN vốn là một đảng cướp với tất cả ý nghĩa chính xác
nhất của nó. Sau khi cướp được chính quyền, họ đã hợp pháp hoá, hệ thống hoá và
quy mô hoá hành vi ăn cướp của họ trên toàn quốc. Họ đã tận dụng 3 ngành chính yếu
nhất của đất nước là lập pháp, hành pháp và tư pháp để biến 3 ngành này thành công
cụ ăn cướp của họ. Nhờ vậy, những “tướng cướp”
từng nắm quyền trong đảng CSVN tức Bộ Chính Trị, và những kẻ sẵn sàng làm tay sai
trung thành cho họ, ngày càng giàu. Dù bất tài nhưng chỉ sau chục năm ngoi lên được
chức bộ trưởng, thủ tướng, họ có thể giàu có hơn cả tổng thống Hoa Kỳ, hay bất cứ
một tổng thống của một nước dân chủ nào.
Sau khi nắm được quyền tối thượng của quốc gia và biến nó
thành quyền ăn cướp, thì họ cương quyết nắm giữ nó với bất cứ giá nào,
dù phải độc ác hay hèn hạ nhất. Đó là nguyên nhân chính yếu của tình trạng
nhân quyền và các quyền tự do của người dân Việt bị chà đạp một cách không thương
tiếc. Và chính vì nhân quyền bị chà đạp mà phát sinh biết bao tệ trạng như: bất
công tràn ngập khắp nơi, dân oan bị cướp đất, lao động bị xuất cảng ra nước ngoài
thành nô lệ, phụ nữ trẻ em bị bán ra nước ngoài làm nô lệ tình dục, đa số người
dân ngày càng nghèo khổ, đất nước tuy có tiến bộ nhưng quá chậm nên ngày càng tụt
hậu so với các quốc gia khác…
Tại sao những người
lãnh đạo đảng CSVN lại chủ trương tước đoạt tất cả mọi quyền làm người
của người dân? Vì nếu còn để cho người dân hành xử bất kỳ một quyền tự do nào, thì người dân
sẽ dùng ngay quyền ấy để phản đối đảng CS và lật đổ họ. Hiện nay, sự bất
công và đau khổ của người dân đã quá mức chịu đựng sinh ra tình trạng “tức nước vỡ bờ”, nên bất chấp sự khủng bố,
đàn áp bỉ ổi, tàn nhẫn và độc ác của Nhà nước Cộng sản, người dân ngày càng tỏ ra
không còn sợ hãi nữa, ngày càng mạnh dạn phản đối. Các phong trào hay tổ chức đấu
tranh nhân quyền và dân chủ ngày càng mạnh, công nhân và dân oan cũng phản kháng
ngày càng nhiều, ngay cả những người từng là công thần của chế độ cũng lên tiếng
phản đối. Trước sự bất mãn hết sức lớn lao của người dân, trước sự bùng nổ thông
tin khiến họ không thể bưng bít được, trước sự lớn mạnh của phong trào dân chủ trong
nước, Bộ Chính Trị đảng CSVN thấy trước nguy cơ bị dân chúng lật đổ,
họ đã bắt chước Lê Chiêu Thống là cầu cứu sự bảo trợ của Trung Cộng chỉ để được
tiếp tục nắm quyền cai trị bất chấp sự nổi dậy của quần chúng.
Những gì Bộ Chính Trị đảng CSVN đã làm để cầu cứu Trung Cộng?
Để nhận được sự bảo trợ ấy, họ đã sẵn sàng bán đứng tổ quốc
cho Trung Cộng qua những sự kiện như:
‒ Nhượng cho Trung Cộng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Được nhượng hai quần đảo này, Trung Cộng bao vây nước ta từ Bắc xuống Nam về phía biển. Điều này hết sức bất lợi cho an ninh và kinh
tế quốc gia. Ngoài ra, Bộ Chính Trị còn nhượng cho Trung Quốc hàng ngàn
km2 đất và hàng chục ngàn km2 biển mà tổ tiên ta đã
nhiều lần phải hy sinh xương máu để bảo vệ.
‒ Mở những đường xe lửa từ Trung Cộng vào
Việt Nam đồng thời cho phép Trung Cộng tự do đưa dân của họ qua
Việt Nam định cư, làm ăn không cần visa. Đây là điều tối kỵ mà các triều đại hay các chế độ cũ dù có
tệ hại đến đâu cũng không dám làm. Trung Cộng hiện nay đang bị nạn nhân mãn, nên
dân của họ sẵn sàng tràn đến những nơi nào mật độ dân ít hơn, dễ sinh sống hơn để
định cư. Nếu cho dân Tàu vào Việt Nam không cần visa, nghĩa là không cần kiểm soát,
thì dân Tàu sẽ dần dần tràn sang Việt Nam ngày càng đông, trong đó chắc chắn có
tình báo của họ. Điều này rất nguy hiểm cho an ninh của Việt Nam. Hiện nay, tại những
trung tâm du lịch dọc bờ biển như Hạ Long, Sầm Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu, v.v… nhiều
người thấy xuất hiện những khu dân cư gồm toàn người Tàu… Như vậy, khi Trung Cộng
muốn xâm lăng Việt Nam, họ đã có sẵn người của họ vốn rất đông ngay trong lòng Việt
Nam rồi, không cần xe hay máy bay chở sang nữa. Và nếu nhà cầm quyền Việt Nam làm
điều gì bất lợi cho những người Tàu này ‒ điều này có thể do chính người Tàu nguỵ
tạo ra ‒ thì Trung Cộng có cớ để đem quân
qua lấy danh nghĩa là bênh vực, bảo vệ họ, nhưng thực chất là xâm chiếm Việt Nam.
Khi cần xâm lăng Việt Nam, Trung Cộng có sẵn đường xe lửa rất thuận lợi để chở quân
và vũ khí qua, nhờ đường mòn Hồ Chí Minh họ để có thể đem quân xuống thẳng miền
Nam.
‒ Nguy hiểm nhất là CSVN cho Trung Cộng đem hàng chục ngàn
công nhân ‒ có thể là quân nhân trá hình ‒ vào Tây Nguyên với danh nghĩa khai thác
bauxite, bất chấp việc này hết sức nguy hiểm cho nền an ninh quốc gia
trước tham vọng bành trướng của Trung Cộng, bất chấp gây tai hại vô cùng lớn lao không
thể sửa chữa cho môi trường sinh thái tại Việt Nam… Tây nguyên là một vị
trí chiến lược trọng yếu: Theo nhà chiến lược Pháp De Lattre de Tassigny, ai chiếm
được Tây Nguyên sẽ dễ dàng chiếm được toàn Đông Dương. Vì thế việc CSVN cho Trung
Cộng đem hàng chục ngàn người của họ vào Tây Nguyên khai thác bauxite thì không
khác nào một chủ nhà giao chìa khoá nhà mình cho một bọn cướp. Khi ấy bọn cướp mà
không vào ăn cướp nhà ấy thì mới là chuyện lạ. Điều rất nguy hiểm là những vùng
họ khai thác, có thể Việt Nam không kiểm soát được. Nhờ đó,
họ có thể bí mật biến những vùng ấy thành những căn cứ quân sự, đào hầm chứa vũ
khí, chứa bom, để khi nào cần chiếm cả Việt Nam thì đã có những điều kiện hết sức
thuận lợi.
Qua những sự việc trên, ta có thể nghĩ rằng CSVN đã bí mật
bán đứng tổ quốc Việt Nam cho Trung Cộng chỉ để giữ vững quyền cai trị độc
tài và bóc lột của mình trên dân tộc Việt Nam. Việc còn lại chỉ là tạo điều
kiện để Trung Cộng xâm chiếm Việt Nam cách hợp pháp, rồi dần dần
hợp thức hoá và công khai hoá chủ quyền của Trung Cộng trên quê hương Việt Nam.
Tất cả những việc hỏi ý dân do đảng CSVN tổ chức, việc lập chức chủ tịch huyện đảo
Hoàng Sa, lập ban nghiên cứu về chủ quyền của Hoàng Sa Trường Sa, v.v… chỉ là những
màn kịch nhằm lừa dối và xoa dịu sự bất mãn của người dân trước một thực
tế hết sức phũ phàng là “nước đã bị bí mật mất vào tay Trung Cộng”. Đây là sự vi phạm
nhân quyền lớn lao nhất của CSVN đối với cả dân tộc Việt Nam. Đảng CSVN
không chỉ bán công nhân ra nước ngoài làm nô lệ lao động, bán phụ nữ cho ngoại bang
làm nô lệ tình dục, v.v… mà còn cả gan bán toàn đất nước và dân tộc Việt Nam cho
Trung Cộng.
Tôi có trình bày vấn đề này cho ông Phó Tổng Giám Đốc đài RFA,
ông ta hỏi tôi: “Làm sao anh dám chắc chắn
được điều ấy?” Tôi trả lời: “Làm chính
trị thì phải tiên đoán được sự việc trước khi nó xảy ra. Khi thấy một người đi chung
quanh nhà mình quan sát, lại còn tìm cách mở ổ khoá nhà mình, thì mình phải biết
chắc chắn rằng hắn đang muốn vào nhà mình ăn trộm. Chờ hắn vào nhà mình và ăn trộm
xong mới dám xác định điều đó thì đã quá muộn. CSVN đã tạo điều kiện thuận lợi cho
Trung Quốc xâm lấn Việt Nam như vậy mà không đoán được họ đã có những mật ước bán
đứng đất nước cho Trung Quốc, chờ đến khi đất nước mất hẳn vào tay Trung Quốc rồi
mới dám xác định thì đâu còn làm được gì nữa?”
Kinh nghiệm cho ta thấy, Bộ Chính Trị CSVN không bao giờ tiết
lộ cho người dân cũng như ngay cả Quốc hội bù nhìn của họ biết họ đã ký những mật
ước gì với Trung Cộng. Người dân chỉ biết được những mật ước ấy sau khi có người
khám phá ra và lên tiếng tố cáo. Những điều mà luật gia Lê Chí Quang đã cảnh báo
cách đây khoảng 10 năm về khả năng xâm lấn của Trung Cộng khiến anh vào tù ‒ lúc
đó CSVN cho là xuyên tạc ‒ nay đang thật sự xảy ra. Những mật ước mà Bộ Chính Trị
đã ký kết với Trung Cộng, chúng ta mới chỉ khám phá ra một phần chứ không phải tất
cả. Chắc
hẳn còn nhiều mật ước khác chúng ta chưa biết. Những mật ước này có thể
nguy hiểm cho quốc gia hơn những mất ước chúng ta đã biết,
Phải đoàn kết và có tổ chức
Trước thực trạng vô cùng bi đát và khẩn cấp trên, người dân
Việt Nam trong cũng như ngoài nước phải ra tay hành động, không thể chần chừ được
nữa. Đây là thời cơ vàng để dân Việt dành lại chủ quyền đã bị đảng CSVN
cướp đoạt hàng chục thập niên qua. Làm gì và phải làm thế nào, thì sẽ có nhiều ý
kiến khác nhau, với nhiều đường hướng hay phương cách khác nhau: người chủ trương
cách này, người theo đường lối khác. Chính vì mỗi người nghĩ mỗi cách, nên cuối
cùng chẳng có cách nào được tất cả mọi người cùng đồng thuận để thật sự trở thành
sức mạnh. Để rồi cuối cùng chúng ta không thay đổi được gì cả. Nếu chúng
ta không thống nhất được đường lối hành động, cứ tự phát mỗi người một cách, mỗi
tập hợp một đường lối thì chúng ta không làm được chuyện gì lớn lao. Những
việc dễ làm, dễ nghĩ ra, dễ được mọi người biết tới, tuy cần thiết và cũng có tác
dụng, thì có quá nhiều người lao đầu vào làm; còn những việc khó khăn, nguy hiểm,
đòi hỏi nhiều can đảm và hy sinh, nhất là phải làm âm thầm ít được ai biết đến thì
không mấy ai chịu làm.
Tóm lại, nếu chúng ta thật sự muốn xoay chuyển được tình thế
bi đát hiện nay của đất nước, không có cách nào hơn là phải đoàn kết và phải có tổ chức.
Rất nhiều người nói điều ấy rất khó, vô cùng khó. Nhưng nếu chúng ta thật sự yêu
quê hương đất nước, biết hy sinh quyền lợi cá nhân hay đoàn thể cho đại cuộc, thì
chắc chắn chúng ta sẽ thực hiện được. Vấn đề là: chúng ta có thật sự yêu quê hương đất nước hay không?
Ngày 30-05-2009
Nguyễn Chính Kết