Ngô Nhân Dụng
Trong Hồi Ký của Một Thằng Hèn, nhạc sĩ Tô Hải tố cáo “Âm mưu súc vật
hóa con người được tiến hành rất có tổ chức” của đảng Cộng Sản ở Việt
Nam, “là tội lớn thứ hai sau tội giết người.” Vì nó biến đổi hệ thống
giá trị của nhiều thế hệ người Việt khiến cho bây giờ họ thấy “không có
gì quý hơn đồng tiền!”. (trang 398)
Vì
không được cơ hội bảo vệ phẩm giá con người cho nên, Tô Hải kể, “Cha
con, vợ chồng sẵn sàng kiện cáo, tranh cướp, thậm chí đâm chém nhau”
chỉ vì muốn giành nhau một mối lợi. Ông nêu thí dụ một nhà thơ nổi
tiếng đã kiện con trai của mình để giành lại một mảnh vườn trước căn
phòng của một thi sĩ bạn thân đã chết.
Nền tảng đạo đức của nước ta bắt đầu bị phá từ thời cải cách ruộng đất,
bây giờ thuật lại nhạc sĩ vẫn còn thấy xấu hổ. Phương pháp đấu tố của
Mao Trạch Ðông không chỉ nhắm giết người mà còn có mục đích hủy hoại
những quy tắc đạo lý cổ truyền: “Thử hỏi trước kia ở đất nước ta có
thời đại nào làng xóm giết nhau, cha bị con đấu tố, vợ chỉ mặt chồng
giữa sân đình gọi là ‘thằng kia!’ rồi đưa ra đầu làng bắn bỏ hay
không?” ( trang 235)
Vì sợ hãi guồng máy độc tài cho nên, Tô Hải thú nhận, “Tất cả chúng tôi
đều sống giả, sống bằng cái đầu và trái tim của người khác... chính
tôi, một nạn nhân đồng thời cũng là một tội đồ... là kẻ cố bám lấy cuộc
sống, cố nuốt mọi cục phân thối hoắc... mà vẫn làm ra vẻ tươi cười.”
(235)
Nhà văn Solzhenitsyn từng nhận xét là một chế độ độc tài cần hai thứ
khí cụ: áp bức và dối trá, có cái này phải có cái kia, thiếu một cái
không được. Người nào đã chọn cai trị dân theo lối độc tài thì hệ quả
tất nhiên là người đó phải dùng cả hai khí cụ: Phải khủng bố, áp bức
dân. Và phải dựng lên một bộ máy dối trá, che đậy, lừa bịp cả thế giới.
Ðấu tố, giết người, là nhưng phương cách tiêu diệt những thành phần khó
kiểm soát, đồng thời cũng đe dọa những người khác. Nếu không dụ dỗ được
thì ép buộc các văn nghệ sĩ phải “làm ra vẻ tươi cười” đóng vai trò
“cung văn,” “minh họa,” đó là guồng máy dối trá giúp bảo vệ chế độ.
Chế độ Cộng Sản ở Việt Nam không sáng chế ra những phương pháp cai trị
đó. Chính họ đã học được từ các bậc thầy Mao Trạch Ðông, Stalin và
Lenin. Người học trò giỏi của những “đại sư quốc tế” này là Hồ Chí
Minh. Ai cũng biết Hồ Chí Minh vẫn đề cao Stalin và Mao Trạch Ðông như
các vị thánh sống. Ông Hồ nói, theo Nguyễn Văn Trấn kể lại, “Bác cháu
chúng ta có thể nhầm chứ đồng chí Stalin không thể nào nhầm được.” Ông
cũng nói, “Những điều gì cần viết đã có Chủ Tịch Mao Trạch Ðông viết cả
rồi, tôi không cần viết sách nữa.”
Nhưng các bài học quan trọng nhất giúp Hồ Chí Minh thành công trong
việc chiếm chính quyền ở nước ta không phải do sách vở dạy mà do kinh
nghiệm sống của chính ông. Ông Hồ đã có mặt ở Liên Bang Xô Viết trong
những năm chế độ này thi hành các chính sách đàn áp tàn bạo cũng như
những vụ xử án dối trá chưa bao giờ thấy trong lịch sử.
Bài học lớn mà Hồ Chí Minh học được ở cả Liên Xô lẫn Trung Quốc là
trong lúc thời thế tao loạn thì kẻ nào tàn ác nhất cuối cùng sẽ thắng.
Bá thuật sẽ thắng vương đạo. Ðạo đức, nhân nghĩa, chỉ để nói, để tuyên
truyền mà thôi; nếu lấy nhân nghĩa ra dùng thì cũng chỉ nên dùng trong
thời bình. Còn trong thời loạn, ai dám giết nhiều người kẻ đó sẽ làm
chúa thiên hạ. Hồ Chí Minh đã là một Tào Tháo của nước Việt Nam, lại
được Stalin đào luyện những bá thuật quốc tế mới do Lenin truyền dạy
nữa.
Nhóm Bôn Sơ Vích và Lenin đã thắng trong cuộc nội chiến Nga 1917 - 1920
vì họ dám giết người tàn bạo nhất so với các phe khác. Chế độ Cộng Sản
mà Lenin dựng lên đã tồn tại được cũng vì sau khi cướp quyền được rồi
họ vẫn dám giết hết những người có ý kiến chống đối. Nếu quá tay giết
cả những người không chống mình cũng không sao! Ðó là quy tắc luân lý
mới của Lenin nhưng cũng là một quy tắc xử sự của Tào Tháo: Thà mình
phụ người còn hơn người phụ mình! Stalin theo đúng chính sách đó để
củng cố quyền hành cá nhân, bằng cách tiêu diệt ngay các đồng chí cũ có
thể cạnh tranh với mình. Hồ Chí Minh có mặt ở nước Nga trong những năm
khủng bố nặng nề đó, ông đã nhập tâm. Và sau này ông lại học được thêm
các phương pháp của Mao Trạch Ðông, ông đủ thông minh để thấy Mao còn
hay hơn Xít vì thường giết người mà không cần dùng đến đội hành quyết.
Ðem người ta ra đấu tố, bỏ đói cho tới chết; dùng “quần chúng nhân dân”
làm quan tòa buộc tội, xử tử hình; cùng lúc đó dùng đội ngũ văn công ca
ngợi tội ác của mình; đó là những phương pháp Mao Trạch Ðông đã dùng
rồi được Hồ Chí Minh áp dụng một cách trung thành.
Người ta thường chú ý đến những tội ác của Stalin mà không chú ý đến
thời Lenin sống ngắn ngủi. Trong cuốn sử The War of the World, Niall
Ferguson chép một bức thư mà Lenin gửi cho các người lãnh đạo Bôn Sơ
Vích ở Penza, ngày 11 Tháng Tám năm 1918, ra lệnh họ phải giết những
“phú nông” (kulak) để thực hiện việc cướp thóc lúa nuôi Hồng quân,
“Các đồng chí! Bọn kulak nổi lên phải bị đè bẹp không thương xót...
Phải hành động để làm gương cho chúng thấy. 1) Treo cổ (tôi nhấn mạnh,
treo cổ để mọi người phải trông thấy) ít nhất 100 tên kulak hút máu
người. 2) Công bố tên họ chúng nó. 3) Lấy hết thóc lúa của chúng nó...
Phải làm sao để trong vòng 100 dặm chung quanh mọi người đều phải thấy,
phải biết chuyện, phải run sợ, và kêu lên với nhau: Họ đang đi giết bọn
kulak và họ sẽ đi giết hết bọn kulak...
Tái Bút: “Hãy dùng các đồng chí cứng rắn nhất!” (trang 150)
Không lãnh tụ nào trong cuộc nội chiến ở Nga dám ra lệnh cho phe mình
giết nhiều người như đám Bôn Sơ Vích dám làm. Ferguson tính là không kể
các người chết vì chiến tranh, “trong những năm từ 1918 đến 1920 có
300,000 vụ hành quyết vì lý do chính trị. Không phải chỉ có những người
thuộc các nhóm đối nghịch bị giết mà cả những người Bôn Sơ Vích cũ dám
cả gan phản đối đám lãnh tụ mới.” (trang 152)
Dưới thời Lenin, trại lao động tập trung đầu tiên đã được lập ra, đến
năm 1920 đã có mấy trăm trại tập trung, làm mẫu cho những trại giam sau
này mà Stalin và Hitler bắt chước. Chính tổ chức mật vụ (Cheka) nảy ra
sáng kiến “cải tạo” các tù nhân bằng lao động khổ sai. Trại Solovetsky
lập ra năm 1923, sang năm 1924 được chính thức gọi là trại cải tạo. Với
sáng kiến của Naftaly Aronovich Frenkel, một tù nhân người gốc Do Thái
được tuyển để đóng vai cai tù, trại này có chính sách cho những người
tù khỏe mạnh ăn no, còn người yếu cho chết đói không sao. Theo Ferguson
thì dưới thời Stalin có ít nhất 18 triệu người, đàn ông, đàn bà, và trẻ
con đã đi qua các cổng trại tập trung cải tạo (Mao Trạch Ðông có sáng
kiến gọi là Lao Cải: Cải tạo con người bằng công việc lao động). Nhưng
con số những người đã bị công cuộc tập thể hóa nông nghiệp của Stalin
buộc vào đường cùng phải chết đói còn cao hơn nữa.
Ðối với các vị Chúa Ðỏ thì những cái chết đó không có gì đáng kể. Một
cán bộ của Stalin giải thích cho cấp dưới nghe về cuộc đấu tranh giữa
đảng Cộng Sản và các nông dân không chịu vào tập thể, “Năm nay là một
năm đấu sức giữa chúng ta với chúng nó coi bên nào mạnh hơn. Phải qua
một trận đói chúng mới biết ai làm chủ. Hàng triệu người đã chết, nhưng
chương trình tập thể hóa nông nghiệp sẽ tồn tại mãi mãi. Chúng ta đã
thắng!” (trang 204)
Hồ Chí Minh đã chứng kiến những cảnh đó khi tới Nga lần đầu để được đào
luyện trong trường cán bộ quốc tế của Stalin, với vai trò đem chủ nghĩa
Cộng Sản gieo rắc khắp nơi trên thế giới. Không phải Lenin hay Stalin
nói, mà chính Trotsky đã nói câu này, “Con đường dẫn tới Paris và
London đi qua Afghanistan, vùng Punjab và Bengal (Ấn Ðộ).” Dù Stalin đã
giết Trotsky nhưng ông ta vẫn theo tấm bản đồ bành trướng đó. Trong số
các cán bộ được Stalin đào tạo, hai người thành công nhất là Kim Nhật
Thành ở Bắc Hàn và Hồ Chí Minh ở Việt Nam.
Cho nên chúng ta không ngạc nhiên nếu Hồ Chí Minh đã sử dụng tất cả các
phương pháp dùng bạo lực và dối trá mà Stalin đã thử dùng rất có hiệu
quả trong việc cướp quyền hành và củng cố quyền hành. Các phương pháp
khủng bố bằng bạo lực ở nước ta có thể nói đã giảm bớt cường độ so với
các gì Stalin đã làm, vì văn hóa phong tục Việt Nam khác với tác phong
của người Nga. Về bạo lực, chính Mao Trạch Ðông mới là khuôn mẫu mà Hồ
Chí Minh đã noi theo. Nhưng về mặt dối trá thì giữa Mao và Stalin không
khác gì nhau. Việc sử dụng các văn nghệ sĩ vào việc đánh bóng chế độ,
ca ngợi lãnh tụ đã được Stalin dùng trước, sau đến Hitler và Mao Trạch
Ðông. Hồ Chí Minh đã áp dụng giống hệt ở Việt Nam.
Chính nhưng hành động đó là cái Nhạc sĩ Tô Hải gọi là “súc vật hóa con người.”
Khi một chế độ độc tài chỉ dùng bạo lực để giết chóc, đe dọa dân, khủng bố dân, thì họ độc ác nhưng vẫn chưa phi nhân.
Có những chế độ không những độc ác mà còn tìm cách hạ thấp nhân phẩm
của mọi người dưới quyền, khiến cho họ trở thành hèn hạ, mất tư cách.
Ðó mới là biến con người thành “súc vật” thật sự. Tất nhiên, muốn làm
cho tất cả mọi người trở thành hèn hạ, đê tiện thì trước đó phải dùng
đến các biện pháp tàn ác để đe dọa. Nhưng cái tội biến con người thành
những kẻ hèn hạ, mất cả khái niệm về nhân phẩm còn kinh khủng hơn nữa.
Tô Hải cho cái tội “súc vật hóa con người” đứng hàng thứ hai sau tội
giết người. Có thể đổi lại cũng được. Tội giết người không nặng bằng,
nếu vẫn để cho các nạn nhân ngẩng đầu lên chết xứng đáng làm người. Còn
hơn bắt người ta sống như súc vật.
Ngô Nhân Dụng
|