Phạm Hồng Sơn
Ls Lê Công Ðịnh bị bắt đưa vào trại giam (Hình: CAND)
Sự
tước đoạt tự do của một cá nhân thường là không thể thấm với sự tước
đoạt lãnh thổ của một quốc gia hay sự nhục mạ danh dự của một dân tộc.
Song, việc bắt Luật sư Lê Công Định đã không còn là chuyện trấn áp một
cá nhân.
Giữa lúc biên thùy đang rên xiết, quốc thổ nơi xung
yếu bị thao túng. Sao dám đang tay tống ngục người đòi «Trả lại hào khí
Diên Hồng» ?
Ngay khi nguyên khí quốc gia đang gắng gượng trở dậy. Sao có thể lưu đày nhân sỹ đang nỗ lực «Khai dân trí» ?
Trong lúc dân đen đang khốn đốn vì bị chặn đường ra biển. Sao lại triệt đi một tinh thần dám «Vươn ra biển lớn» ?
Thường
nghe, kẻ làm vua túng quẫn xưa kia khi chạy sang phương Bắc cũng chưa
bao giờ dám thất thố với kẻ sỹ, chả dám lên giọng mắng mỏ thần dân,
cũng không xuẩn đến mức hả hê, tự đắc với thân phận tôi đòi.
Sự
thách thức tinh thần dân tộc là điều đã rõ. Trò nhạo báng danh dự quốc
gia là điều đang hiển hiện. Âm mưu dọa nạt lương tri đang thức tỉnh là
điều không còn bàn cãi.
Sự tồn vong của dân tộc, nền độc lập
của giang sơn đang ngóng chờ một thái độ dứt khoát của mỗi con dân nước
Việt trước các thách thức, nhạo báng, dọa nạt lịch sử. Bóng của những
âm mưu trấn áp vẫn đang rình rập ngày đêm khắp không gian nước Việt.
Nhưng, chúng sẽ phải hoảng hồn tan biến khi tiếng hô đồng thanh cất
lên: Hãy bắt tôi đi !
Phạm Hồng Sơn
16/06/2009
(Tất cả các từ đặt trong ngoặc kép " " là tựa đề bài viết hoặc diễn đàn đã tham gia của Luật sư Lê Công Định)
Khai dân trí
Ls. Lê Công Ðịnh
Đại sứ Hoa Kỳ Michael Marine đã có buổi nói chuyện ngắn, nhưng lý thú,
vào chiều ngày 20/9/2006 tại Sài Gòn về quan hệ Việt-Mỹ. Ông đã có một
số nhận xét đáng chú ý về nạn tham nhũng nghiêm trọng và sự thiếu minh
bạch của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Sau bài phát biểu là
phần hỏi đáp theo thông lệ. Thính giả hôm ấy, ngoài báo giới, phần đông
là giới trí thức ở những lĩnh vực khác nhau, một số có tên tuổi trong
xã hội.
Người thông thái không đến từ câu trả lời mà từ câu hỏi. Nghe nội dung
và cách hỏi người ta có thể nhận biết được người hỏi ở thang bậc nào
của chỉ số trí tuệ, và thậm chí, văn hóa. Tất cả những câu hỏi hôm ấy,
đáng buồn thay, không thể hiện được tầm vóc của “trí tuệ Việt” mà thiên
hạ đang cổ súy. Dù vậy, nhận định vui hay buồn về “trí tuệ Việt” không
phải là chủ đề của bài viết này.
Buổi nói chuyện ngắn về đề tài ngoại giao của ông Đại sứ Mỹ chiều hôm
ấy khiến người ta ưu tư về một đề tài khác không kém phần quan trọng,
đó là giáo dục. Trong số những người đặt câu hỏi hôm ấy, đáng chú ý có
một vị xưng danh là “chuyên gia kinh tế”. Vị này hỏi rằng Việt Nam nên
theo đuổi chính sách phát triển kinh tế nào khi mà nền kinh tế tự do
luôn mang đến nhiều bất ổn xã hội và rối loạn chính trị, với bằng chứng
là ở Thái Lan ngày 19/9/2006 đã xảy ra đảo chính quân sự!
Thính giả hôm ấy quả thật kinh ngạc trước lối tư duy như vậy. Ai cũng
biết cuộc chính biến vừa qua ở Thái Lan không những không mang đến bất
ổn xã hội mà còn giúp giải quyết tình trạng rối loạn chính trị đang đi
đến cực điểm do nạn tham nhũng bất trị của Chính phủ Thaksin Shinawatra
gây ra, chứ không phải xuất phát từ chính sách kinh tế tự do của ông
cựu Thủ tướng này. Mặt khác, trên thực tế, hoàn toàn không có bất kỳ
mối liên hệ nhân quả nào giữa chính sách kinh tế tự do với đảo chính
quân sự, bất ổn xã hội và rối loạn chính trị. Có thể kể ra nhiều bằng
chứng hiển nhiên ngược lại với nhận định nông cạn ấy.
Rõ ràng những suy nghĩ kiểu như trên là điều thường thấy trong một nền
giáo dục ít quan tâm đến việc trang bị cho cá nhân những kiến thức khả
dụng và kỹ năng phân tích độc lập. Niềm tin của vị “chuyên gia” đó chỉ
là một trong rất nhiều ví dụ về những “định đề”, đặc biệt trong lĩnh
vực sử học, đã gắn chặt vào đầu óc các thế hệ sinh viên Việt Nam sau
khi họ được nhào nắn khéo léo trong khuôn khổ nền giáo dục hiện tại. Ai
cũng tưởng lời thuyết giảng trên giảng đường là chân lý bất biến, không
cần chứng minh, kể cả những người hay hoài nghi và tin rằng mình khá tự
chủ.
Nhìn vào hệ thống giáo dục từ trước đến nay có thể dễ dàng nhận thấy
rằng việc đề cao suy nghĩ cá nhân và phương pháp nghiên cứu độc lập
hoàn toàn thiếu vắng tại các trường trung học và giảng đường đại học.
Mục tiêu giáo dục chỉ nhằm nhồi nhét kiến thức đủ để đối tượng của nền
giáo dục trở thành những chiếc đinh ốc chỉ biết nhảy múa theo nhịp điệu
vận hành của cỗ máy nhà nước và xã hội đã được hoạch định sẵn chương
trình hoạt động theo “cơ chế”.
Học sinh và sinh viên thì lười biếng tìm hiểu nguồn gốc và cơ sở của
các kiến thức và thông tin được “mớm” cho mình, vì bậc cha chú và thầy
cô không khuyến khích thói quen tranh luận, đối thoại, và thậm chí từ
chối thừa nhận dấu ấn cá nhân trong nhân sinh quan. Giới nghiên cứu học
thuật thì lờ đi hoặc ít quan tâm đến việc chú giải chi tiết nguồn gốc
thông tin mà mình viện dẫn trong các công trình và luận án khoa học, vì
có vẻ khắp nơi người ta mặc nhiên ăn cắp ý tưởng của người khác mà
không cảm thấy ngần ngại hay xấu hổ.
Mặt khác, chưa bao giờ ở xã hội Việt Nam lại có nhiều tiến sĩ như vậy.
Một thời dân chúng nhạo báng quan chức không được học hành tử tế, nhưng
giờ đây, như để tránh ánh mắt miệt thị của dân chúng, vị quan to nào
cũng rủng rỉnh một mảnh bằng tiến sĩ hoặc chí ít là thạc sĩ. Nạn mua
bán bằng cấp do tâm lý chuộng nhãn hiệu trí tuệ bề ngoài hơn thực học
báo hiệu thực trạng suy đồi không tránh khỏi của nền giáo dục cùng hệ
lụy của nó là suy đồi đạo đức.
Cải cách giáo dục tại Việt Nam xem ra là một vấn đề nan giải, không chỉ
đơn thuần được giải quyết bằng cách trả lương cao cho giới giáo chức
hoặc tăng cường kiểm soát quy trình soạn thảo nội dung sách giáo khoa.
Thật ra, tương lai hệ thống đào tạo nhân tài cho quốc gia tùy thuộc vào
việc khi nào nhà nước chấm dứt sự can thiệp nghiệt ngã vào nội dung
giảng dạy ở bậc trung học và đào tạo ở bậc đại học. Giáo dục là một
lĩnh vực chuyên môn cần được dành quyền tự trị một cách tối đa. Chỉ
người tiêu dùng, tức phụ huynh trả tiền cho con em đi học và chính
người đi học, có quyền thẩm định chất lượng sản phẩm giáo dục của các
cơ sở đào tạo. Không cần quá lo ngại tình trạng lừa đảo thường thấy
trong hoạt động đào tạo vì luật pháp và xã hội đã có đủ những công cụ
cần thiết để xử lý.
Dân trí chỉ có thể được “khai hóa” khi người dân được cung cấp kiến
thức và thông tin đa chiều để tự mình thẩm định và tiếp nhận nội dung
của kiến thức và thông tin ấy. Trường lớp, một công cụ của giáo dục,
chỉ thủ giữ vai trò hướng dẫn và cung cấp phương pháp tư duy và phân
tích cho đối tượng của nền giáo dục. Người dân, khi tranh luận, thậm
chí thách thức, những kiến thức và thông tin sai lệch sẽ không gặp rắc
rối về phương diện pháp lý với nhà cầm quyền, hay tối thiểu cũng nhận
được sự bảo đảm và bảo vệ của luật pháp. Chỉ như vậy thì nền giáo dục
mới hoàn thành được trọng trách “khai dân trí” của mình.
Nguồn: Tia Sáng (http://www.tiasang.com.vn/news?id=1039)
Trả lại hào khí Diên Hồng
Lê Công Định
Luật sư Lê Công Định, đang làm việc ở TP. HCM, là người đã
viết bài Tại sao không nên sợ 'đa nguyên', đăng tại trang web BBC
giữa tháng Hai năm nay. Trong bài viết mới nhất, tác giả đặt
vấn đề cần rũ bỏ sự nhu nhược và đừng hài lòng với những
gì đang có:
Lịch sử Việt Nam là lịch sử thăng trầm của một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây.
Những khoảng khắc hòa bình hầu như ngắn ngủi. Sau 1975 niềm vui độc lập
và thống nhất, với biết bao máu và nước mắt vô tội đổ xuống, đã không
kéo dài bao lâu. Đất nước triền miên rơi vào khủng hoảng, hết khủng
hoảng kinh tế, đến khủng hoảng đạo lý và bây giờ khủng hoảng niềm tin.
Điều đó suy cho cùng có nguyên nhân nội tại từ chính sự nhu nhược của
mỗi con người chúng ta.
Bốn ngàn năm lịch sử đã kết nối từng cá nhân thành một dân tộc, hun đúc
nên khát vọng Đại Việt, đưa chúng ta đi hết chiến thắng này đến thắng
lợi khác, giành lại độc lập tự chủ và thống nhất giang sơn về một mối.
Thành tựu ấy có được là do sự quật khởi của hào khí Diên Hồng qua các
thời đại.
Tiếc thay khi chuẩn bị bước vào nền thái bình thịnh trị, sự nhu nhược
đã thế chỗ cho tinh thần quật khởi! Kẻ thì bỏ nước ra đi, trốn tránh.
Người thì ở lại nhẫn nhục, muộn phiền. Bọn cơ hội thừa dịp thi thố sự
đồi bại, biến giang sơn chung thành món mồi riêng tư béo bở.
Vì nhu nhược, chúng ta không dám phản kháng thói hạch sách, nhũng nhiễu
của lớp quan lại mới, chấp nhận dùng tiền vượt qua trở ngại. Đến khi
nhìn lại, quốc nạn tham nhũng và quan liêu đã lan tràn, bất trị.
Vì nhu nhược, chúng ta che tai không dám nghe lời nói ngay thẳng, mặc
nhiên dung túng sự dối trá và xu nịnh. Đến khi bừng dậy, đạo đức đã suy
đồi, khó sửa.
Vì nhu nhược, chúng ta hài lòng với những gì đang có, cố tin vào sự ổn
định giả tạo, đắm mình vào những lễ hội vô nghĩa liên miên. Đến khi
nghĩ lại, xung quanh đã đầy dẫy ung nhọt, không còn thuốc chữa.
Vì nhu nhược, chúng ta bịt mắt trước những bước đi vũ bão của các dân
tộc láng giềng. Đến khi tỉnh ngộ, sự tụt hậu quá rõ ràng, không còn cơ
may rút ngắn khoảng cách.
Để che giấu mặc cảm do nhu nhược, khắp nơi người ta kể nhau nghe những
bài vè châm biếm hoặc lớn tiếng dè bỉu chuyện cung đình tồi tệ, nhưng
lại trong … quán nhậu! Chí khí kiểu “sĩ phu Bắc Hà” ấy liệu sẽ giúp ích
được gì cho công cuộc chấn hưng đất nước đang lúc cần hào khí Diên Hồng
năm xưa?
Muốn chấn hưng đất nước trong vận hội ngàn năm có một này cần phải rũ
bỏ sự nhu nhược đó. Muôn người xin hãy nắm tay lại, chế ngự sự sợ hãi,
cùng tiến về phía trước, may ra khát vọng Đại Việt mới có cơ may biến
thành hiện thực. Xin đừng để sự nhu nhược của những cá nhân trở thành
sự bạc nhược của cả một dân tộc.
Toàn văn bài viết này đã đăng trên báo Pháp Luật TP. HCM ngày 5-3-2006.
Nguồn: BBCVietnamese.com
|