Việt Dương
Bát canh nấu với máu gan,
Cầu trời thấu đến lời van của mình.
Phan Bội Châu
Theo dõi tiếng nói của trí thức trên mạng Bauxite Việt Nam, chúng tôi có một số cảm nghĩ, xin ghi lại như sau:
1. Tiếng gọi bauxite
Từ khi dự án bauxite ở Tây Nguyên được công bố, trên ngôn luận chúng ta
được nghe những lời cảnh cáo, can ngăn yêu cầu chính quyền dừng dự án
của tầng lớp tinh hoa của chế độ, trong đó có thể kể những người như
các ông tướng Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Trọng Vĩnh, Đồng Sĩ Nguyên và Lê
Văn Cương, những chuyên gia như tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, những nhà văn
hóa như nhà văn Nguyên Ngọc, nhà văn Phạm đình Trọng… Nhưng đặc biệt
hơn là lần đầu tiên dưới chế độ độc tài toàn trị trên nửa thế kỷ, tầng
lớp trí thức đã đứng dậy nói tiếng nói độc lập của trí thức trong Bản
Kiến Nghị ngày 12/4/2009, với nội dung trình bày sự sai trái và nguy
hại của dự án và đề nghị chính quyền dừng dự án. Bản Kiến Nghị khởi đầu
với 135 nhà trí thức đã nhanh chóng nhận được sự đồng tình của trên
2000 chữ ký của trí thức và nhiều thành phần xã hội, từ đó dấy lên một
cuộc vận động rộng lớn với tờ báo mạng Bauxite Việt Nam.
Phải nói đây là một biến cố ghi dấu sự chuyển động của trí thức Việt
Nam dưới chế độ đảng trị mà giá trị của sự chuyển động có thể nhìn thấy
ở mấy điểm:
Về vị thế: Tập thể trí thức của Bản Kiến
Nghị đã đứng thẳng bước ra khỏi tiếng nói của đảng, vượt ra khỏi thân
phận trí thức vốn rất đau nhục dưới chế độ Cộng Sản để đối diện với
đảng và chính quyền, nói với đảng về việc làm giết dân và phá nước của
đảng.
Về tiếng nói: Bản Kiến Nghị cùng với những
thư ngỏ gửi nhà nước, quốc hội và nội dung của mạng Bauxite Việt Nam đã
kết tinh được những mối lo của dân, những phản biện về dự án, đồng thời
nói lên được tinh thần uy vũ bất năng khuất của trí thức trong truyền
thống sĩ phu Việt Nam.
Về lập trường: Tập thể trí thức, vốn là một
bộ phận của đảng, không chống đảng, không chống chính quyền, chỉ yêu
cầu chính quyền dừng dự án, yêu cầu chính quyền nghĩ đến cái chết của
dân và sự an nguy của nước. Với lập trường này, cho đến nay, tập thể
trí thức của Bản Kiến Nghị đã có thể vượt ra khỏi những quy chụp như:
Phản động, âm mưu sách động lật đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa mà chính
quyền thường sử dụng để đàn áp nhiều nhà trí thức và những tổ chức
chính trị dân chủ trong khoảng mươi năm trở lại đây.
2. Trận chiến ngôn luận
Từ lập trường trên, tiếng nói của trí thức đã vạch ra một trận chiến
ngôn luận: Bên dân – Bên đảng mà tiếng nói của trí thức, với tờ báo
mạng Bauxite Việt Nam đã có thể chuyên chở được những vấn đề căn bản
sau:
Thứ nhất, Bauxite Việt Nam đã trở thành diễn đàn:
- Tập hợp những công trình nghiên cứu soi sáng dự án bauxite Tây Nguyên
về các mặt kinh tế, môi trường, văn hóa và an ninh quốc phòng.
- Tập hợp những công trình nghiên cứu về ngành khai thác bauxite trên thế giới.
- Tổng hợp và theo dõi những chương trình khai khoáng, bauxite của Trung Quốc trên thế giới.
Trước đây, trừ những chuyên gia về khai khoáng bauxite, còn đa số chúng
ta có lẽ xa lạ với thứ quặng này. Nhưng chỉ trong mấy tháng nay, khi
vấn đề bauxite trở thành mối đe dọa Việt Nam thì những trang báo mạng
và nhất là báo Bauxite Việt Nam đã giúp chúng ta có những ý niệm rõ rệt
về bauxite và cập nhật được sự diễn tiến của chuyện bauxite Tây Nguyên.
Thứ nhì, từ Bauxite Việt Nam, tập thể trí
thức đã có thể nhanh chóng nói với chính quyền về tất cả những vấn đề
liên quan đến dự án bauxite, không để cho chính quyền một mình một chợ,
độc quyền chân lý, muốn nói gì thì nói. Chẳng hạn:
- Đã phê phán những hành sử không thẳng thắn của các ông lãnh đạo đảng và nhà nước về dự án bauxite.
- Đã phê phán sự sai trái của Bộ Công Thương khi bộ này q uy chụp
Bản Kiến Nghị với những lời lẽ trịch thượng hồ đồ như: “Bên cạnh những
ý kiến đúng đắn, có nhiều ý kiến rất kém xây dựng, hoàn toàn dựa trên
những thông tin sai lệch, dựng chuyện, trầm trọng hóa, thậm chí mang
tính kích động và bị các tổ chức phản động lợi dụng”. Đồng thời đã trả
lời từng điểm, từ đó cho thấy thêm sự kém hiểu biết và nói liều của
người lãnh đạo bộ này trong dự án bauxite.
- Đã phê phán Bản Báo Cáo Của chính phủ gửi Quốc Hội về dựa án bauxite
là loại báo cáo lẩn tránh, thiếu chính danh vì đã để cho Bộ Trưởng
Thương Mại thảo và ký với nội dung đối phó hơn là trình bày minh bạch
để thuyết phục.
Và từ những nhận định và phê phán của trí thức, chúng ta hiểu sự ẩn dấu
của dự án bauxite và nhận rõ thêm mối nguy của đất nước khi đảng và nhà
nước có những toan tính làm ăn bất chính với Trung Quốc.
Thứ ba, từ Bauxite Việt Nam, trí thức đã
khẳng định: Tiếng nói yêu cầu chính quyền dừng dự án bauxite, kể cả thí
điểm, là chính nghĩa và xác định trách nhiệm của trí thức trước lịch
sử, trước sự tồn vong của đất nước trong xã luận số 2:
“Trong truyện này (nâng cao dân trí, đánh thức chí khí), người trí thức
và lớp người trẻ tuổi lại phải chấp nhận dấn thân chứ không còn giải
pháp nào hơn. Mình không làm thì ai làm? Mình không chủ động đảm đương
lấy thì chờ ai đảm đương hộ? Mình không nhận việc thì cậy ai nhận việc
thay? Cuộc đời một dân tộc cũng như một cơ thể, cũng có khi cảm mạo vì
thời tiết thất thường, cũng có khi đau vì tai họa bất ưng. Nhưng đành
để chết đi một cơ thể, tội đó nặng lắm, vì đó là tội tự sát”.
Như thế, trên trận chiến ngôn luận, khi Bên Trí Thức (Bên Dân) đã có
thể xác định chính nghĩa thuộc về mình thì Bên Đảng, Nhà Nước với 700
tờ báo và mấy chục báo điện tử đã không thể phản biện và không đủ lý lẽ
để bảo vệ dự án. Trước sự thật đó, nếu theo lẽ thường - Tình và Lý –
thì chính quyền phải xét lại, theo dân ý, theo lẽ phải và dừng ngay dự
án và nếu đã tùy tiện cho công ty Trung Quốc xây dựng cơ sở nhà máy thì
theo nhận định của tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, trong bài “Khai thác
bô-xít Tây Nguyên: cái nhìn từ một vài góc độ kinh tế học” là “Những
phí tổn phạt vạ kinh qua chuyện hủy hợp đồng, nếu có, cũng chẳng to
tát gì so với hậu quả tai hại khổng lồ của việc khai thác Tây Nguyên
một cách hấp tấp và thiếu tính toán cơ bản (đọc bản báo cáo của chính
phủ trước Quốc Hội kỳ họp này, ai mà rút được một kết luận gì minh bạch
thì là thánh sống).
Nhưng chính quyền không theo lẽ phải mà đã dùng Quốc Hội làm bình phong
để vô hiệu hóa Tiếng kêu của trí thức với một việc làm đơn giản cao
ngạo là Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Phú Trọng đã tổng kết kỳ họp Quốc Hội
bằng mấy lời khen về hướng đồng thuận của vấn đề bauxite và răn đe bóng
gió những sự bất đồng.
Trước mối lo gan ruột về dự án bauxite nên người ta hy vọng nhiều vào
kỳ họp Quốc Hội lần này và trong mấy ngày đầu kỳ họp, nhiều người đã
vui mừng trước những lời tâm huyết, bộc phá của những đại biểu Nguyễn
Minh Thuyết, Nguyễn Lân Dũng và Dương Trung Quốc chất vấn và phân tích
về sự nguy hại của dự án về ba vấn đề kinh tế, môi trường và an ninh
quốc phòng. Nhưng đó chỉ là những cơn gió tạo nên một bầu khí sôi động,
rộn lên một chút, còn kết quả thì Quốc Hội trước sao nay vậy. Vì nơi
này vốn là sân khấu để đảng trình diễn những vở tuồng.
Và như thế chúng ta hiểu là ngay cả Kịch Bản Ba: Cò Cưa Kéo Cưa về dự
án như mấy dự đoán của bài xã luận số 2 cũng không thể có được. Vì đảng
và nhà nước không thề dừng mà phải cương quyết xốc tới theo Kịch Bản
Hai: Lý Trí Thua (phải nói thêm là cả Tình nữa). Từ cái thua này chúng
ta cần tìm hiểu thêm những bí ẩn của câu chuyện bauxite từ 2001 tới
nay. Nhân đọc Tây Nguyên Du Ký (Doi-thoai.com/6/10/09), chúng tôi thấy nhà văn Vũ Ngọc Tiến có ghi lại một số chi tiết liên quan đến sự bí ẩn này, nên xin trích lại như sau:
“Ngay
từ lúc còn ở Hà Nội, tôi đã xác định cái đích cuối cùng của chuyến lãng
du Tây Nguyên đang gây xôn xao dư luận, làm nóng nghị trường Quốc Hội.
Là người viết văn, viết báo, nhưng có một thời trai trẻ tôi vốn là kỹ
sư Địa Vật Lý, từng khảo sát cấu trúc mỏ bauxite bằng các phương pháp
đo đạc giá trị các trường vật lý ở Lạng Sơn (1971) và Tây Nguyên (1978)
nên tôi hiểu biết chút ít về loại mỏ quặng này. Điều đầu tiên khiến tôi
trăn trở suy nghĩ là vì sao phía Trung Quốc lại phớt lờ nguồn lợi khai
thác bauxite ở Lạng Sơn, Cao Bằng (vốn có nhiều thuận lợi như trữ
lượng, vận chuyển, hàm lượng alumin cao) thì chắc hẳn Tây Nguyên còn có
nhiều hấp dẫn khác cuốn hút họ mà tôi chưa biết chăng? Mang nặng trong
lòng điều trăn trở ấy, cùng nỗi ám ảnh từ 3 lá thư của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, tôi hăm hở tìm về Đăk Nông…
Tôi đã nghe giải trình của Tập Đoàn TKV và Bộ Công Thương nói rằng,
nơi có thân quặng bauxite thường là nơi đất cằn, năng xuất cây trồng
thấp. Bằng trí nhớ của người địa chất và chiếc la bàn trong tay, tôi dễ
dàng tìm lại được những thân quặng bauxite ở Đăk Mil, Đăk Song. Lớp đất
trồng ở đó đa phần là mầu mỡ, độ ẩm cao vì bauxite Tây Nguyên thuộc
thành tạo Laterit, có bản tính ngậm nước, giữ ẩm cho cây nên năng suất
hồ tiêu, cà phê khá cao, cỡ 2 tấn cà phê/1 mẫu. Ở Đăk Mil, tôi vô tình
phát hiện ra một sự thật đáng quan ngại hơn. Từ ngã ba thị trấn Đăk Mil
có con đường đi về hướng tây chỉ 5 km là đến tỉnh biên giới Mondol Kiri
của Căm Pu Chia, chính là nơi đây mà Trung Quốc đã mua đứt một vùng đất
rộng lớn, đặc quyền khai thác trong 99 năm.
Ngày cuối cùng ở Đăk Nông, tôi dành thời gian đi Nhân Cơ, vì ở đó
có trụ sở công ty khai khoáng, nhà máy tuyển quặng do người Trung Quốc
đang chỉ huy xây dựng va khai trường mở vỉa quặng đã hoàn tất việc san
ủi…
Chia tay Mỹ (cư dân ở Nhân Cơ bị đuổi ra khỏi khu vực khai thác
mỏ), tôi thử liều xông thẳng vào bên trong khu vực nhà máy la cà quan
sát và hỏi chuyện. Đến ngôi nhà nhỏ của đội khảo sát địa chất, tôi gặp
Đức, kỹ sư hóa nghiệm của Liên Đoàn Địa Chất 10 (Cục Địa Chất - Bộ Công
Thương). Anh được điều động biệt phái sang giúp TKV phân tích mẫu quặng
bauxite. Đức cho biết, đội khảo sát chỉ có 7 người, đến Nhân Cơ cuối
năm 2007, nay đã rút về Hà Nội hết, chỉ còn anh là người duy nhất ở
lại. Là người hiểu nghề, biết việc nên chỉ cần trò chuyện với Đức
thoáng qua vài phút, tôi hiểu ra, TKV rất ít người am hiểu về bauxite.
Họ tổ chức thăm dò trữ lượng khai thác ở Tân Rai, Nhân Cơ đều đại khái,
qua loa cho đủ thủ tục, chứ không làm công phu, bài bản theo quy trình
nghiêm ngặt như ngành địa chất xưa nay vẫn từng áp dụng.
Rất may, tại hiện trường thi công xây nhà máy, tôi gặp 2 kỹ sư
người Trung Quốc, một họ Lỗ, 51 tuổi, còn anh họ Vương, 43 tuổi. Nghe
tôi nói tiếng Bắc Kinh lưu loát, họ tưởng tôi là người Trung Quốc mới
sang nên vồ vập chuyện trò, nói cười ngả ngớn, không hề giữ kẽ. Ông
Vương cho biết, người Trung Quốc ở Nhân Cơ ít hơn rất nhiều so với Tân
Rai, chỉ có khoảng vài chục người, đều là chuyên gia kỹ thuật, quê ở
Quan Đông hoặc Liêu Ninh, hưởng lương rất cao so với ở quê nhà và gấp 5
– 7 lần lương của chuyên gia kỹ thuật Việt Nam. Hỏi chuyện về chuyên
môn, ông Lỗ cho biết: “Quặng bauxite Tây Nguyên có hàm lượng alumin rất
thấp, chỉ đạt 9 - 10% ở Tân Rai, còn ở Nhân Cơ tốt hơn tí chút, đạt 11
- 12%, nên lượng bùn đỏ thải ra hồ chứa mỗi năm vô cùng lớn. Vì áp dụng
công nghệ tuyển ướt nên cần lượng nước đầu vào rất nhiều. Mùa mưa có
thể dùng nước trên mặt, chứ đến mùa khô có lẽ phải cần thêm giếng khoan
nước ngầm mới đủ dùng. Nước thải sau tuyển quặng đương nhiên sẽ tồn dư
thành phần kim loại nặng và hóa chất…”
Nghe ông
Lỗ nói, tôi rùng mình liên tưởng đến thảm họa môi trường ở mỏ quặng
măng gan Tốc Tác, Cao Bằng gần 20 năm trước. Ban lãnh đạo TKV hoặc bất
cứ ai trong nghề địa chất, khai khoáng đều biết rõ thảm họa khủng khiếp
này. Chỉ trong một đêm, bãi thải của mỏ từ trên cao gặp mưa lũ đã đổ ập
hàng chục triệu mét khối đất, đá xuống thung lũng, chôn sống hơn 300
người! Bài học Tốc Tác Cao Bằng còn đó, rồi nguy cơ ô nhiễm nguồn nước
lưu vực sông Đồng Nai, ảnh hưởng đến 16 triệu dân của miền Đông Nam Bộ.
Ở xứ mình mạng người rẻ quá chăng!?
Tôi trở về (khách sạn) “Hà Nội Phố” (Ở Gia
Nghĩa, Đăk Nông), ngồi uống cà phê trong quán ở sân khách sạn, thiết kế
tuyệt đẹp và tao nhã theo phong cách của người Tràng An thanh lịch, mà
lòng buồn se thắt. Cơn mưa đầu mùa ở Đăk Nông dài lê thê, nước tuôn xối
xả. Ngoài đường có tấm áp phích cực lớn, kỷ niệm 5 năm thành lập tỉnh
Đăk Nông (2004 – 2009). Tôi nhìn hình vẽ thành phố Gia Nghĩa trong
tưong lai trên áp phích qua ánh chớp nhập nhoàng, hồi nhớ lại tất cả
tài liệu chính thống của nhà nước về Đắk Nông mà mình đã tra cứu trên
internet, sắp xếp lại theo trình tự thời gian. Hình như người ta đã âm
thầm chuẩn bị từng bước, rất tinh vi, bài bản cho Dự án khai thác
bauxite ở Đắk Nông từ lâu rồi mà có việc Quốc Hội cũng đã vô tình biểu
quyết:
Tháng 1/2004 tách 6 huyện phía nam của tỉnh
Đắk Lăk cũ, lập tỉnh Đắk Nông có trữ lượng bauxite chiếm 91% trữ lượng
toàn Tây Nguyên.
Tháng 2/2006 điều chỉnh địa giới các xã ở 3
huyện Đắk Song, Đắk Mil, Đắk Lấp để gom các thân quặng bauxite gần nhau
về cùng một đơn vị hành chính cấp xã, tiện lợi cho quản lý và khai thác.
Cuối năm 2006 giải phóng mặt bằng lòng hồ,
xây đập thủy điện Đắk Rơ Lih chỉ cách Nhân Cơ 2 km theo đường chim bay,
có lẽ chủ yếu phục vụ khai thác, chế biến quặng, nhưng không thấy TKV
hạch toán vào vốn đầu tư của Dự án bauxite (!?).
Năm 2007 triển khai giải phóng mặt bằng, mở khai trường mỏ và xây nhà máy chế biến quặng Nhân Cơ.
Tháng 5/2009, Bộ Công Thương trình báo cáo về
Dự án khai thác bauxite Tây Nguyên lên Quốc Hội, bị dư luận phê phán vì
thông tin lập lờ, hiệu quả bánh vẽ!
Nửa cuốn năm 2010, theo lời ông Lỗ, kỹ sư
người Trung Quốc nói với tôi thì chắc chắn họ sẽ lắp đặt thiết bị cho
nhà máy tuyển quặng Nhân Cơ…
Vậy là mọi sự đã rồi, mâm cỗ đã bày lên chờ
thắp nhang cúng cụ, con cháu nào dám ho he. Thư của Võ Đại tướng, kiến
nghị của giới trí thức, thảo luận của đại biểu Quốc Hội phỏng có tác
dụng gì?”.
3. Những canh bạc
Trên nửa thế kỷ, dưới cơ chế độc tài toàn trị, đảng Cộng Sản đã chơi
nhiều canh bạc vô sản. Nếu xét về chủ nghĩa và lý tưởng cộng sản thì
đảng đã thua đậm khi phải từ bỏ vô sản trở về với tư sản. Ở tất cả
những canh bạc vô sản, dân là vốn, nên mỗi lần thua, đảng đã dễ dàng
xoa tay chơi lại canh bạc khác với những cái tên sửa sai, đổi mới, định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đến nay, với canh bạc bauxite, phạm vi chiếu
bạc không còn ở tầm tay dân Việt, đất Việt để dễ xoa tay, mà đã mở rộng
sang đến nước Tầu. Vốn của canh bạc này không còn là dân mà là nước.
Đem nước làm vốn chơi bạc với Tầu!
Trong xã luận số 2, các ông Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn và Nguyễn Thế
Hùng, dựa vào những tiếng nói tâm huyết ở Quốc Hội và những tiếng nói
trên các trang mạng, đã nêu lên một hy vọng là “Vấn đề bauxite có phần
chắc sẽ không thể xong xuôi êm thấm trong một sớm một chiều như ước mơ
của những người ưa chơi canh bạc này tới đồng xu cuối cùng và giọt máu
cuối cùng của dân tộc”. Có thể những ai còn nghĩ đến dân, đến nước thì
đều có niềm hy vọng như thế. Vì trước hiểm nguy chúng ta đều cầu thảm
họa đừng đổ xuống nhanh quá để hy vọng còn có cơ cứu chữa. Nhưng nghĩ
lại, một canh bạc đã được bí mật tính toán, sắp xếp từ 2001 với những
màn đầu đã được triển khai như ít điều tiết lộ của nhà văn Vũ Ngọc Tiến
cùng với những sự việc đang diễn ra thì chúng ta hiểu họ, những người
Tầu chủ canh bạc này, đang dẫn những người lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt
Nam vào chiếu bạc mà kẻ thắng người thua là ai chúng ta có thể đã thấy
được.
Và cũng trong thời gian chuyện bauxite đang đè nặng lên tâm trí người
Việt thì trên mạng Bauxite Việt Nam, ông Trần Hoàng trong bài “Khu Đô
Thị Mới do Trung Quốc đầu tư xây dựng ở phía bắc tỉnh Lạng Sơn” cho
biết tin “ Theo quyết định số 55 (28/4/2008) của Thủ Tướng chính phủ về
phát triển khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng - Lạng Sơn, lãnh đạo tỉnh
Lạng Sơn đã liên doanh với 2 công ty của Trung Quốc xây dựng khu đô thị
Nam Hoàng I từ ngày 25-8-2008. Dự án Khu Đô Thị Mới rộng 511.000 m2, do
Trung Quốc bỏ tiền ra xây dựng và có một công ty Việt Nam trên giấy tờ
là “làm chủ” công trình (nhưng không có tiền và không biết nghề xây
dựng).
Từ bản tin này cùng với những tin Trung Quốc trúng thầu nhiều dự án
trọng điểm từ Bắc vào Nam, chúng ta có thể hình dung đến những canh bạc
người Tàu đang chơi với những ông vua của từng địa phương để thiết lập
những khu Đô Thị China Town trên khắp Việt Nam. Từ những canh bạc lấy
đất đổi tiền này thì Tàu tới đâu là làm chủ nơi đó với tiền, quyền và
sự bảo kê của chính quyền Việt Nam và dân Việt sẽ bị đuổi ra khỏi những
khu thiết lập Đô Thị Mới không được kêu một tiếng. Một điều cần nói là
ở canh bạc bauxite, người Việt còn có thể lên tiếng phản đối về những
cái lỗ kinh tế, cái hại môi trường và an ninh quốc phòng, chứ ở những
canh bạc khu Đô Thị Mới với những dự án kinh tế thì chúng ta khó có thể
nói điều gì trước những ông quan Cộng Sản Việt Nam và những ông chủ
người Tàu, mà chỉ uất hận trước một nghịch lý là người Tàu thì có toàn
quyền trên đất Việt, còn người Việt lại vô quyền trên quê hương mình và
trở thành dân oan trôi dạt cho tới chết.
Như thế là từ đầu thập niên 2000, Cộng Sản Hoa - Việt đã chơi những
canh bạc biên giới, canh bạc biển đảo, và tới nay thì khởi đầu những
canh bạc bauxite, canh bạc dự án kinh tế trọng điểm và canh bạc Đô Thị
Mới China Town… Ta hồ! Đảng Cộng Sản Việt Nam hy sinh 4, 5 triệu người,
xẻ dọc Trường Sơn, chiếm cho được Miền Nam để cuối cùng đưa đất nước
vào vực thẳm đen tối thế này sao?
Dừng lại trước câu hỏi này, chúng tôi đã liên tưởng đến nước Nhật thời hậu chiến qua mấy điểm:
Thứ nhất, Nhật phải chịu cái nhục thua trận
bị Mỹ chiếm đóng cai trị, đất nước tan nát với dân đói rét (90 thành
phố, tỉnh thị bị hủy diệt với trên 8 triệu người không nhà).
Thứ nhì, sau 5 năm, dưới chế độ dân chủ
(chính quyền Nhật lãnh đạo với sự chỉ đạo và giám sát của Mỹ), dân Nhật
cật lực làm việc với viện trợ Mỹ (lương thực, kỹ thuật và tài chánh),
nước Nhật đã hồi phục từ tinh thần đến vật chất.
Thứ ba, sau 7 năm, dưới sự lãnh đạo của chính quyển Yoshida, Nhật Bản đã lấy lại nền độc lập.
Thứ tư, chỉ trong 20 năm (1945 – 1965) Nhật Bản hậu chiến trở thành một cường quốc kinh tế.
Nhìn lại Việt Nam hậu chiến, chúng ta thấy:
Thứ nhất, Việt Nam Cộng Sản là kẻ chiến
thắng, chiếm Miền Nam nguyên vẹn với cơ sở nông nghiệp, công thương
nghiệp tân tiến. Sau mấy năm chiến thắng, chúng ta đã nghe Lê Duẩn nói
là nhân dân ta sẽ đi trên thảm vàng.
Thứ nhì, sau 10 xây dựng kinh tế xã hội chủ
nghĩa: Tập thể hóa ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, cả nước
thiếu ăn, thiếu mặc. Trong mấy năm cuối thập niên 1970, nhiều vùng từ
Bắc đến Nam, dân đã lũ lượt đi ăn mày.
Thứ ba, sau 20 năm đổi mới làm kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa, chủ tư bản Cộng Sản Việt Nam liên doanh với
chủ tư bản nước ngoài đã tạo nên một xã hội tư bản hoang dã, người có
đặc quyền đặc lợi thì giàu quá độ, còn người nghèo thì cũng tới đáy,
với một nền kinh tế đứng cùng hàng với những nước nghèo nhất trên thế
giới.
Thứ tư, với chế độ độc tài dựa vào Trung
Quốc, sau 30 năm hậu chiến từ một nước độc lập, qua những canh bạc chơi
với Tàu, Việt Nam đã trở thành một nước lệ thuộc Trung Quốc.
4. Trận chiến lòng người
Trở lại canh bạc bauxite, theo ngôn ngữ của Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn
Phú Trọng và Phó Thủ Tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng (nói cho có nói
về vấn đề bauxite và đã giải quyết bằng mấy lời chính phủ nhận trách
nhiệm phải làm tốt hơn, vì nước, vì dân!), chúng ta hiểu chính quyền đã
không thể từ được canh bạc này. Từ đó trận chiến sẽ diễn ra ở thực địa
và đi vào lòng người, và tiếng nói của trí thức sẽ trở thành Đài Quan
Sát, theo dõi sự tàn phá và sự đe dọa trên tiến trình triển khai những
dự án. Cuộc đấu tranh này, trí thức không có lực, không có gì khác
ngoài vũ khí ngôn luận và tấm lòng bày tỏ sự phải trái, an nguy. Đó là
cuộc vận động ý thức: Thức tỉnh dân trí về những vấn đề của xã hội, dân
tộc và đất nước mà cụ thể và thiết thân nhất là ý thức về mối họa của
những dự án bauxite. Như thế Tiếng nói Bauxite Việt Nam sẽ trở thành
tiếng nói lương tâm dân tộc, tiếng nói của hồn nước.
Dưới chế độ độc tài toàn trị, trên nửa thế kỷ chỉ có đảng nói, còn dân
cúi đầu nghe và làm. Vì thế, Kiến Nghị yêu cầu chính quyền dừng dự án
bauxite thu được trên 2000 chữ ký trong một thời gian ngắn, có thể nói
là một hiện tượng bộc phá sự tù hãm. Nó rất lạ đối với Việt Nam, còn
trong những nước dân chủ như Nam Hàn và Đài Loan thì những cuộc vận
động chống lại tệ tham nhũng hay một số dự án nào đó của chính quyền là
chuyện thường và người ta có thể dễ dàng đạt tới những con số hàng
triệu chữ ký. Nhưng những chữ ký đồng tình chống dự án bauxite có giá
trị thiêng liêng khác với những cuộc vận động chữ ký để biểu hiện dân ý
trong xã hội dân sự ở những quốc gia dân chủ, vì chữ ký chống bauxite
biểu hiện tình thương dân, thương nước trước mối họa dân chết, nước
mất. Vì thế, nếu đảng Cộng Sản Việt Nam hủy diệt mấy ngàn chữ ký hay
hủy diệt Kiến Nghị chứa đựng máu gan của con dân Việt để bảo vệ những
canh bạc người Tầu đang tung hoành trên đất Việt thì đảng Cộng Sản tự
hủy cái chính nghĩa yêu nước - dân tộc - độc lập của đảng mà đảng đã
viết thành sử, và dân Việt đã phải học trên nửa thế kỷ nay.
Trước mối nguy lệ thuộc Tàu và trước cái nhục của một chính quyền tàn
ác mà ươn hèn, trận chiến bauxite sẽ trở thành trận chiến trong lòng
người: Nhục và phẫn nộ. Vì thế, đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ không bao giờ
diệt nổi Tiếng Gọi Bauxite. Chúng ta hy vọng những lời sắt đá của tập
thế trí thức trong bài xã luận số 2 cùng bản Kiến Nghị sẽ trở thành bản tuyên ngôn của Chính Nghĩa chống Phi Nghĩa như ông Hà Sĩ Phu đã nhận định trong bài “Chân lý là điểm hẹn”.
Và tin rằng trước những canh bạc ô nhục đang đưa nước vào họa diệt
vong, với tiếng gọi bauxite, trí thức và thế hệ trẻ đã bắt đầu cuộc vận
động cứu người cứu nước.
Việt Dương
|