Ls. Nguyễn Hữu Thống
Để xây dựng uy tín và thần thánh
hóa Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản đã sử dụng nhiều chiêu bài và ngụy tạo nhiều huyền
thoại:
1) Huyền thoại gia đình cách mạng.
2) Huyền thoại lên đường cứu nước.
3) Tiếm danh Nguyễn Ái Quốc.
4) Giả danh Trần Dân Tiên.
5) Giả đoàn kết quốc gia.
6) Giả hiệp ước quốc tế.
7) Ngụy tạo tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. HUYỀN THOẠI GIA ĐÌNH CÁCH MẠNG.
Các nhà sử học Cộng Sản trình bày
rằng Hồ Chí Minh xuất thân từ một gia đình cách mạng. Thân phụ là phó bảng Nguyễn
Sinh Sắc hay Nguyễn Sinh Huy là bạn đồng khoa với Phan Chu Trinh và thường giao
kết với Phan Bội Châu là người đồng hương. Sau khi được bổ nhiệm tri huyện Bình
Khê, Nguyễn Sinh Sắc đã tự ý từ quan để phản kháng chế độ thực dân phong kiến.
Sự thật không phải như vậy. Dầu là
một sĩ phu đỗ đại khoa, Nguyễn Sinh Sắc đã không có một đời sống cá nhân đứng đắn.
Ông thường say rượu và trong những lúc nóng giận đã có thái độ thô lỗ và đánh đập
con cái. Năm 1910, cũng vì say sưa, Nguyễn Sinh Sắc đã quá tay đánh chết một
nghi can là Tạ Đức Quang. Cũng vì vậy ông bị triều đình tuyên phạt 100 trượng,
giáng 4 cấp, cách chức tri huyện và sa thải khỏi quan trường. Sau này ông được
miễn phạt trượng hình. Dầu sao ông đã làm nhục giới nho sĩ vì không biết tu
thân trước khi trị quốc. Do sự sỉ nhục này đối với sĩ lâm và bà con lối xóm,
ông đã dắt các con rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, đi tha phương cầu thực làm nghề
bốc thuốc tại miền Nam.
Sự thật lịch sử này đã được chứng
minh bằng một văn thư do Hồ Chí Minh dưới tên Paul Tất Thành viết từ Nữu Ước
ngày 15-12-1912 gửi Khâm Sứ Trung Kỳ, xin cho cha được phục chức và được làm thừa
biện, giáo thụ hay huấn đạo để có phương tiện mưu sinh.
Và truyền thống gia đình cách mạng
của Hồ Chí Minh chỉ là một huyền thoại (Chính Đạo: Hồ Chí Minh, con người và
huyền thoại).
2. HUYỀN THOẠI LÊN ĐƯỜNG CỨU NƯỚC.
Các nhà sử học CS còn trình bày rằng
năm 21 tuổi Hồ Chí Minh rời Bến Nhà Rồng Saigon xuất dương lên đường cứu nước.
Thời gian này, phong trào kháng thuế tại Quảng Nam và các tỉnh miền Trung đã bị dập tắt. Trường Đông Kinh
Nghĩa Thục tại Hà Nội đã bị thâu hồi giấy phép, và tại Nhật Bản, Phan Bội Châu,
Cường Để cùng 200 sinh viên Việt Nam du học đã bị trục xuất. Theo gương Phan
Chu Trinh, năm 1911 Hồ Chí Minh tìm đường qua Pháp để học hỏi tinh thần tự do
dân chủ, hy vọng có ngày trở về giải phóng đồng bào khỏi ách đế quốc tư bản.
Đây cũng chỉ là một huyền thoại.
Do đơn ngày 15-9-1911,
Nguyễn Tất Thành xin Bộ Thuộc Địa Pháp đặc cách cho theo học Trường Thuộc Địa
"để trở nên người hữu ích cho nước Pháp" (utile à la France). Trường Thuộc Địa là trung tâm đào tạo các cán bộ hành
chánh và giáo dục của chế độ thuộc địa. Theo quy chế, các sinh viên phải được sự
giới thiệu của nhà chức trách Đông Dương. Nhiều vị khoa bảng và trí thức nổi tiếng
đã theo học trường này như Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Thân Trọng Huề, Bùi Quang
Chiêu, Bùi Bằng Đoàn v.v... Vì không đúng thủ tục, đơn của Nguyễn Tất Thành đã
bị bác bỏ.
Và huyền thoại Hồ Chí Minh từ Bến
Nhà Rồng xuất dương lên đường cứu nước đã bị giải tỏa.
3. TIẾM DANH NGUYỄN ÁI QUỐC.
Từ 1911 đến 1914, Nguyễn Tất Thành
làm phụ bếp tại các tầu buôn của hãng Les Chargeurs Réunis chạy quanh các nước
Âu Châu, Phi Châu và Mỹ Châu. Khi Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ, Nguyễn Tất Thành
sang Anh làm phụ bếp tại nhà hàng Carlton và trở về Paris năm 1917. Trong thời
gian này LS Phan Văn Trường đã thành lập Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước để đấu
tranh công khai đòi tự trị và độc lập cho Việt Nam.
Do lời mời của lãnh tụ Đảng Xã Hội
Pháp Jean Jaurès (người đã can thiệp với Thủ Tướng Pháp để ân xá cho Phan Chu
Trinh), cùng với cụ Phan, LS Phan Văn Trường đã nhiều lần đến điều trần tại Quốc
Hội Pháp để trình bày quan điểm về chính sách bảo hộ của Pháp tại Việt Nam và đạo
đạt nguyện vọng của người dân Việt Nam lên Quốc Hội.
Sau Thế Chiến Thứ Nhất, năm 1919 tại
Paris, dưới bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc, bộ ba Phan Văn Trường, Nguyễn Thế
Truyền và Nguyễn Tất Thành, nhân danh Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước đã đệ
trình các Chính Phủ Đồng Minh và Chính Phủ Pháp Thỉnh Nguyện Thư của Dân Tộc Việt
Nam trong tinh thần hợp tác và thương nghị, nguyên văn như sau:
"Từ sau cuộc chiến thắng của
Đồng Minh, các dân tộc bị trị vô cùng xúc động trước những triển vọng tương
lai, căn cứ vào những cam kết minh thị và trân trọng của các cường quốc Đồng
Minh trước dư luận thế giới trong cuộc đấu tranh vừa qua để bảo vệ Văn Minh chống
Dã Man.
Chiếu theo các cam kết này, một
Kỷ Nguyên mới của Luật Pháp và Công Lý sẽ khai mở đem lại hy vọng chứa chan cho
các dân tộc bị trị.
Trong khi chờ đợi Nguyên Tắc Chủ
Quyền Quốc Gia được chấp thuận, trong lý tưởng cũng như trên thực tế, do sự thừa
nhận và thực thi Quyền Dân Tộc Tự Quyết thiêng liêng, Dân Tộc Việt Nam trân trọng
đệ trình các Chính Phủ Đồng Minh cao quý, cũng như Chính Phủ Pháp khả kính, những
thỉnh nguyện khiêm tốn sau đây:
1) Ban hành Đại Xá cho tất cả
các chính trị phạm bản xứ.
2) Cải thiện chế độ tư pháp
Đông Dương bằng cách ban hành những bảo đảm về quyền bình đẳng trước pháp luật
giữa người bản xứ và người Âu Châu. Bãi bỏ toàn bộ và vĩnh viễn hệ thống tòa án
đặc biệt được dùng làm công cụ khủng bố và đàn áp các thành phần lương thiện nhất
của dân tộc Việt Nam.
3) Ban hành Tự Do Báo Chí và Tự
Do Ngôn Luận
4) Ban hành Tự Do Lập Hội và Tự
Do Hội Họp.
5) Ban hành Tự Do Di Trú và Xuất
Ngoại
6) Ban hành Tự Do Giáo Dục và
thiết lập tại các tỉnh những trường kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản xứ.
7) Thay thế chế độ cai trị bằng
nghị định bằng chế độ pháp trị.
8) Thành lập Phái Bộ Thường Trực
dân cử của người bản xứ bên cạnh Quốc Hội Pháp để đạo đạt tới Quốc Hội những
nguyện vọng của người bản xứ.
Khi đệ trình những thỉnh nguyện
nêu trên, Dân Tộc Việt Nam kỳ vọng vào nền Công Lý Thế Giới của các Cường Quốc
và đặc biệt tin tưởng vào sự hào hiệp của Dân Tộc Pháp cao quý hiện đang nắm giữ
vận mệnh của Dân Tộc Việt Nam bằng cách đứng ra bảo hộ Dân Tộc Việt Nam nhân
danh Cộng Hòa Pháp. Dân Tộc Việt Nam không hổ thẹn được sự bảo trợ của Dân Tộc
Pháp, trái lại còn cảm thấy vinh hạnh.
Vì họ biết rằng Dân Tộc Pháp biểu
tượng cho Tự Do và Công Lý, và sẽ không bao giờ từ bỏ lý tưởng cao cả của Nghĩa
Bác Ái toàn cầu. Vì những lý do đó, trong khi lắng nghe tiếng nói của kẻ bị trị,
Dân Tộc Pháp sẽ hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với nước Pháp cũng như đối với
nhân loại.
Thay mặt Hội Những Người Việt
Nam Yêu Nước: Nguyễn Ái Quốc".
Luật Sư Phan Văn Trường, tiến sĩ
luật, Chủ Tịch Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước là người soạn tài liệu này.
Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le
Patriote) là bút hiệu chung của bộ ba Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và
Nguyễn Tất Thành. Nguyễn là dòng họ đa số tại Việt Nam và Ái Quốc là phỏng theo
tên Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước (Groupe des Patriotes Annamites). Với bút
hiệu này, họ đã viết những bài bình luận trên các báo của Đảng Xã Hội như Nhân
Loại (L'Humanité), Dân Chúng (Le Populaire) v..v...
Mặc dầu vậy, Hồ Chí Minh đã tự nhận
mình là Nguyễn Ái Quốc. Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, trong cuốn "Những Mẩu
Chuyện về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch". Hồ Chí Minh viết: "Khi chiến
tranh chấm dứt, tại Hội Nghị Hoà Bình Véc-Xây, Tổng Thống Mỹ Wilson nói về 14
điều. Các đại biểu các dân tộc bị áp bức đến để yêu cầu độc lập và tự do. Trong
số đó, có Nguyễn Ái Quốc (tức là Anh Ba hay Hồ Chí Minh). Ông Nguyễn tổ chức
nhóm người Việt Nam yêu nước tại Paris và ở các tỉnh khác. Với danh nghĩa của tổ
chức này, ông đã đưa yêu cầu 8 điều ra trước Hội Nghị Véc-Xây".
Đây chỉ là một sự mạo nhận. Vì những
lý do sau đây:
a) Thỉnh Nguyện Thư được soạn thảo
nhân danh Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước, một tổ chức do Phan Văn Trường
thành lập năm 1914 tại Paris, khi Nguyễn Tất Thành còn ở Luân Đôn.
b) Thỉnh Nguyện Thư đề cập đến những
nguyên tắc pháp lý mà trong thời gian đó (1919) chỉ các luật gia và chính trị
gia mới thấu hiểu như quyền bình đẳng trước pháp luật, chế độ pháp trị, chế độ
tòa án đặc biệt, quyền dân tộc tự quyết v.v...
c) Đề nghị thành lập Phái Bộ Thường
Trực Dân Cử Việt Nam tại Quốc Hội Pháp là do sáng kiến của Phan Văn Trường. Từ
năm 1911, cùng với Phan Chu Trinh, theo lời mời của Jean Jaurès, ông đã nhiều lần
đến điều trần tại Quốc Hội Pháp để đạo đạt những nguyện vọng của nhân dân Việt
Nam lên Quốc Hội.
d) Nguyễn Tất Thành chỉ là một học
sinh vừa qua bậc tiểu học và không có kiến thức chính trị. "Ông rất ít hiểu
về chính trị, không biết thế nào là công hội, thế nào là bãi công, và thế nào
là chính đảng... Ông không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông
Phan Văn Trường viết thay... Ông lắng nghe những buổi thảo luận, nhưng không hiểu
rõ về chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản v.v... ông nhức đầu
vì khó hiểu". Vả lại vốn liếng tiếng Pháp của ông chỉ gồm những chữ thông
dụng trong đời sống hằng ngày học từ những cô sen trong giới bình dân (Trần Dân
Tiên, sđd).
e) Trần Dân Tiên còn nêu lên yêu cầu
bãi bỏ chế độ sưu dịch, thuế đinh, thuế muối và việc bắt ép dân mua muối và thuốc
phiện. Các điều khoản này không thấy trong bản Thỉnh Nguyện Thư tiếng Pháp đăng
trên báo L'Humanité ngày 18-6-1919. (Chính Đạo: Hồ Chí Minh, con người và huyền
thoại).
Nói tóm lại, trái với lời Trần Dân
Tiên, Hồ Chí Minh không phải là tác giả Thỉnh Nguyện Thư của Dân Tộc Việt Nam.
Và năm 1919 Hồ Chí Minh cũng chưa phải là Nguyễn Ái Quốc. Đây chỉ là một sự mạo
nhận tư cách của Nguyễn Tất Thành, một người ít học nhưng nhiều tham vọng.
Năm 1917, khi từ Luân Đôn trở về
Paris, Nguyễn Tất Thành tá túc tại nhà Luật sư Phan Văn Trường số 6 Villa des
Gobelins. Năm 1914, Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường bị bắt giam về tội phản
nghịch (tình nghi liên lạc với Cường Để tại Berlin). Sau 9 tháng điều tra, hai
nhà chí sĩ họ Phan đã được miễn tố (Phan Chu Trinh chủ trương hợp tác với Pháp
đánh Đức, cũng như Gandhi hô hào thanh niên Ấn Độ tình nguyện gia nhập quân đội
Hoàng Gia Anh).
Mặc dầu vậy, hai vị vẫn bị cảnh
sát điều tra theo rõi. Mỗi khi có trát đòi Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành đứng
ra nhận trát, tự xưng là Nguyễn Ái Quốc. Ông nói: "Nguyễn Ái Quốc chính là
tôi, các ông cứ đưa trát cho tôi, đừng làm phiền chú/bác tôi (ý nói Phan Văn Trường
hay Phan Chu Trinh)". Năm 1921, Nguyễn Tất Thành bỏ Đảng Xã Hội để gia nhập
Đảng CS dưới tên Nguyễn Ái Quốc.
4. GIẢ DANH TRẦN DÂN TIÊN
Các nhà sử học cho rằng Hồ Chí
Minh là người thông minh, nhưng là sự thông minh ngoài phố. Sự khôn ngoan giảo
quyệt này đã được biểu lộ rõ nét nhất trong cuốn "Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ Tịch" của Trần Dân Tiên xuất bản và tái bản nhiều lần
từ 1948 đến 1976. Ngày nay ai cũng biết Trần Dân Tiên là Hồ Chí Minh. Trong
lịch sử văn học thế giới, không thấy một nhà văn tự trọng nào lại giả danh bằng
một bút hiệu để tự đề cao mình. Dùng bút hiệu thật để nói về mình cũng là vạn
bất đắc dĩ, vì cái tôi thường đáng ghét. Dùng bút hiệu giả để thần thánh hóa
mình thì quả là đáng khinh!
Chúng ta thử đánh giá sự
"khiêm tốn" của tác giả:
"Nhiều nhà văn nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ Tịch nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng mãi đến nay chưa có người nào thành công. Nguyên
nhân rất đơn giản: Chủ Tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình
(...). Hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn, rất nhiều đồng bào đang đói khổ.
Sau 80 năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng
ta nên làm những công việc hết sức cần kíp đi đã (...). Với đức tính khiêm tốn
nhường ấy, và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc làm sao Hồ Chủ Tịch có thể
kể lại bình sinh của Người được".
Thế nhưng Hồ Chủ Tịch đã đại ngôn:
"Khi còn là một thiếu niên 15
tuổi, người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ
của đồng bào. Lúc bấy giờ anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng
bào. Anh khâm phục các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám, nhưng
không hoàn toàn tán thành cách làm của 3 người, vì:
- Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu
người Pháp thực hiện cải lương.
- Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật
giúp đỡ để đuổi Pháp, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau.
- Cụ Hoàng Hoa Thám còn nặng cốt
cách phong kiến".
Năm 1905, khi Hồ Chí Minh 15 tuổi,
cụ Phan Chu Trinh chưa viết Đầu Pháp Chính Phủ Thư (1906), chưa phát động phong
trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục (1907). Vậy mà Hồ Chí Minh đã phê phán
chính sách canh tân và giáo dục của cụ là cải lương (mà cải lương thì đã sao?).
Chưa thấy cụ Phan Bội Châu rước
cọp vào nhà, chỉ thấy Hồ Chí Minh cõng rắn CS về cắn gà nhà, gây tai hại vô
lường cho đất nước và dân tộc.
Năm 1945, khi mới 55 tuổi, Hồ Chí
Minh tự phong mình là "cha già của dân tộc". Ông còn tự thần thánh
hóa mình, kể rằng "chân dung Hồ Chủ Tịch được treo trên bàn thờ giữa những
bình hương hoa đèn nến".
"Hồ Chủ Tịch được nhân dân
yêu mến là do lòng hy sinh và lòng nhân từ của Người. Chủ Tịch không bao giờ
nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ đến nhân dân (...). Đối với
nhi đồng, tên Bác Hồ là như một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em
trở nên ngoan ngoãn".
|
Cô Xuân |
Vậy mà người cha già (67 tuổi) đã
nhẫn tâm để đàn em hạ sát người vợ trẻ đã sinh cho mình đứa con trai là Nguyễn
Tất Trung. Năm 1957, khi cô Nguyễn Thị Xuân yêu cầu công khai hoá cuộc hôn phối
đã kéo dài trên 2 năm, Hồ Chí Minh vẫn ngọt ngào giả lả: "Cô xin như vậy
là hợp tình hợp lý, nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường
Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được". Do đó, cô đành phải
chờ một thời gian. Trong thời gian này, cô đã biến thành chướng ngại vật làm
mất uy tín của lãnh tụ. Theo đúng phương châm hành động, tất cả những chướng
ngại vật làm cản trở con đường của lãnh tụ sẽ bị thanh toán và vô hiệu hóa.
Thanh toán trước hết bằng cách hạ
nhục đối phương, cho viên tướng công an Trần Quốc Hoàn mặc sức hãm hiếp. Rồi
cho thủ hạ chùm chăn lên đầu và dùng búa đánh vỡ sọ nạn nhân (như vụ Staline hạ
sát Trotsky tại Mexico).
Một người có những thủ đoạn bất
nhân như vậy, mà bộ máy tuyên truyền của CS còn đề cao như một vị anh minh kết
tinh "đức tính từ bi của Đức Phật, tính công bằng bác ái của Chúa Ki-Tô,
sự minh triết của Khổng Tử, sự siêu thoát của Lão Trang".
Ngoài ra, Trần Dân Tiên còn tự
sánh mình với Mặc Tử là người đã mòn trán lỏng gót bôn ba khắp nơi để lo cho
thiên hạ. Điều đáng nói là, trong khi Mặc Tử chủ trương hòa bình, thì Hồ Chí
Minh cổ võ chiến tranh. Trong khi Mặc Tử theo thuyết kiêm ái, yêu dân tộc, yêu
nhân loại, thì Hồ Chí Minh gieo rắc căm hờn, thúc dục thú tính để phát động đấu
tranh giai cấp và thủ tiêu những lương dân vô tội và những người quốc gia yêu
nước theo chủ nghĩa dân tộc.
5. GIẢ ĐOÀN KẾT QUỐC GIA.
Khi hay biết phe Thế Giới Dân Chủ
không chịu trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương vì họ không muốn
Staline mở rộng Bức Màn Sắt từ Đông Âu qua Đông Á, ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh
giả bộ giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương để thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa
Các-Mác. Để có chính nghĩa đoàn kết quốc gia, Hồ Chí Minh mời Nguyễn Hải Thần
thuộc Cách Mạng Đồng Minh Hội và Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam thuộc Việt Nam
Quốc Dân Đảng tham gia chính phủ liên hiệp.
Trong Tuyên Cáo Đoàn Kết ngày
24-12-1945, Hồ Chí Minh cam kết tôn trọng sự đoàn kết của các đảng phái quốc
gia để tranh thủ độc lập, "Vì độc lập quốc gia là cứu cánh tối hậu cần
phải tranh thủ và chỉ có sự hợp tác và hữu nghị chân thành giữa những người
Việt Nam mới có thể đạt được độc lập quốc gia". Ông còn lên án mọi hành vi
phá hoại tình đoàn kết quốc gia cũng như việc dùng võ lực để tiêu diệt các đảng
phái quốc gia.
Vậy mà sau đó Trần Dân Tiên đã vu
oan giá họa "bọn phản động Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam được Trung
Hoa Quốc Dân Đảng giúp đỡ đã có âm mưu phá hoại và Hồ Chủ Tịch đã phải nhường
cho họ 70 ghế quốc hội".
Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh ký Hiệp
Ước Sơ Bộ Sainteny công nhận Việt Nam là một quốc gia tự trị trong Liên Bang
Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 15 ngàn quân Pháp được thay thế quân Trung
Hoa, đổ bộ Hải Phòng và đồn trú tại Bắc Việt trong 5 năm.
Tháng 5-1946, Hồ Chí Minh qua
Paris thương nghị. Phái đoàn Việt Nam đáng lẽ do ngoại trưởng Nguyễn Tường Tam
lãnh đạo, nhưng trước đó: "Bộ Trưởng Tam đã bỏ trốn". Và mùa hè năm
đó, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh cũng bỏ trốn sang Tàu để khỏi bị sát hại
như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm v.v...
Sau khi tống xuất quân đội Trung
Hoa, CS thẳng tay đàn áp và thủ tiêu các cán binh Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội.
Như vậy, Tuyên Cáo Đoàn Kết 1945 chỉ nhằm thành lập chính phủ liên hiệp để làm
bình phong thương nghị với Pháp. Rồi nhờ Pháp tống xuất Tàu cho Đảng CS rảnh
tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia để được độc quyền lãnh đạo.
Trong Thế Chiến Thứ Hai, để được
Đồng Minh yểm trợ, Staline đưa ra chính sách thân thiện với Anh Pháp. Đảng CS
Pháp phối hợp với Đảng Xã Hội trong Mặt Trận Bình Dân. Phe CS Việt Nam cũng hợp
tác với phe Tân Tả Phái của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch để thành
lập Mặt Trận Dân Chủ và xuất bản tờ La Lutte (Tranh Đấu).
Trong những cuộc bầu cử Hội Đồng
Đô Thành Saigon và Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, liên danh Tranh Đấu của Tạ Thu
Thâu toàn thắng. Đây là giai đoạn đấu tranh công khai, ôn hòa, hợp pháp và bất
bạo động. Chiêu bài đoàn kết quốc gia một lần nữa được áp dụng. Nguyễn An Ninh
thuộc phe Trung Hoà, Tạ Thu Thâu thuộc phe Tân Tả Phái và Nguyễn Phan Long
thuộc phe Lập Hiến, đã đứng ra tổ chức Đông Dương Đại Hội để đạo đạt thỉnh
nguyện của nhân dân Việt Nam tới phái đoàn Quốc Hội từ Paris sang.
Vậy mà ngay sau khi cướp được
chính quyền, Đảng CS đã phản bội lời giao ước đoàn kết và đã thủ tiêu Tạ Thu
Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Văn
Sâm, Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo v.v... là những người quốc gia yêu nước thuộc
các nhóm Tân Tả Phái và Lập Hiến.
Về việc hạ sát Tạ Thu Thâu, Hồ Chí
Minh còn giả nhân nghĩa tiếc Tạ Thu Thâu là người yêu nước. Nhưng ông lại thêm
rằng những ai chống lại chính sách của ông đều sẽ bị vô hiệu hoá. Sau khi
Staline thủ tiêu người chiến hữu đàn anh của mình là Trotsky năm 1940, tất cả
phe tân tả phái Trotskit đều phải bị thanh toán và triệt hạ uy tín.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn cho hạ
sát Đức Giáo Chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ và các lãnh tụ các đảng phái quốc gia yêu
nước như Trương Tử Anh (Đại Việt), Lý Đông A (Duy Dân), Khái Hưng, Nhượng Tống
(Quốc Dân Đảng) v...v...
6. GIẢ HIỆP ƯỚC QUỐC TẾ.
Theo sách lược CS ký hiệp ước
không phải để thi hành hiệp ước. Vì các hiệp ước ngoại giao chỉ là những phương
tiện để thực thi những mục tiêu chính trị:
a. Ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny ngày
6-3-1946 nhờ Pháp tống xuất Tàu để rảnh tay thanh toán các đảng phái quốc gia
nhằm giữ độc quyền yêu nước, độc quyền lãnh đạo. Sau đó lại phát động chiến
tranh ngày 19-12-1946.
b. Ký Hiệp Định Đình Chiến Genève
1954 để tống xuất Pháp và cướp chính quyền tại Miền Bắc. Sau đó lại tái phát
động chiến tranh.
c. Ký Hiệp Định Hòa Bình Paris
1973 để tống xuất Mỹ. Sau đó lại tái phát động chiến tranh để thôn tính Miền
Nam.
7. NGỤY TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
Sau cuộc Cách Mạng giải thể CS tại
Đông Âu, chủ nghĩa CS đã bị nhân dân thế giới vứt vào thùng rác lịch sử. Tại
Đức, quê hương của Các-Mác, chủ nghĩa Mác đã bị phủ định và được thay thế bằng
chủ nghĩa Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ Xã Hội. Tại Nga, quê hương của Lênin, chủ
nghĩa Lênin cũng đã bị phủ định để thay thế bằng chủ nghĩa Dân Chủ Tự Do và Dân
Chủ Xã Hội.
Trước sự phá sản của chủ nghĩa Mác
Lê, Đảng CS ngụy tạo cái gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh", một điều mà
chính Hồ Chí Minh thời sinh tiền cũng không bao giờ đề cập đến. Ông chỉ nói đến
chủ nghĩa Mác Lê, tư tưởng Mao Trạch Đông, và tác phong Hồ Chí Minh. Ông nhìn
nhận rằng, về phần tư tưởng, "Bác Mao đã viết cả rồi, tôi không còn gì để
viết nữa".
Hồ Chí Minh và Mao Trạch Ðông
Do đó ông chỉ thực thi trung thành
những nguyên lý Mác Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông. Ông hết sức tán tụng Staline
và Mao Trạch Đông. Ông viết: "Mao Trạch Đông đã đông phương hóa chủ
nghĩa Mác Lê và đã đưa cách mạng Trung Quốc đến thành công. Cách mạng Việt Nam
phải học tập và thực sự đã học hỏi rất nhiều từ cuộc cách mạng Trung Quốc. Các
nhà cách mạng (CS) Việt Nam phải ghi nhớ điều này và phải biết ơn Mao Trạch
Đông về sự đóng góp to lớn này".
Thật vậy, Hồ Chí Minh không có tư
tưởng gì đặc sắc. Ông chỉ là người sao chép lại.
Những mục tiêu độc lập, tự do,
hạnh phúc ghi trong các tiêu đề chánh thức của nhà nước chỉ là phỏng theo 3
cương lĩnh của chủ nghĩa Tam Dân do Tôn Dật Tiên đề xướng trong Cách Mạng 1911:
"Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền Tự Do và Dân Sinh Hạnh Phúc".
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Hồ Chí
Minh đọc ngày 2-9-1945 cũng là sự sao chép Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ theo đó:
"mọi người sinh ra bình đẳng và được Tạo Hóa ban cho những quyền bất khả
xâm phạm như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Thêm vào
đó là lời mở đầu Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp 1789: "mọi người
sinh ra tự do và bình đẳng và luôn luôn được tự do và bình đẳng".
Dùng giả nhân nghĩa là ngụy quân
tử. Nhưng khéo ngụy trang Hồ Chí Minh đã viện dẫn các tư tưởng minh triết của
Nho Gia trong việc giáo hóa, trị dân và dựng nước như: "Điều gì mình không
muốn thì đừng làm cho người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; lo trước cái
lo của dân, vui sau cái vui của dân; không lo nghèo mà lo không đều; mười năm
trồng cây, trăm năm trồng người" v.v....
Về mặt kiến thức, Hồ Chí Minh thú
nhận ông không am tường chính trị và nhức đầu khi nghe nói về những vấn đề lý
thuyết chủ nghĩa. Ông chỉ là người cán bộ thừa hành trung thành và tận tụy của
Staline và Mao Trạch Đông. Nhờ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế
Truyền, ông nổi danh vì bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc. Từ đó, ông được giới
thiệu với các lãnh tụ Xã Hội và CS Pháp như Léon Blum, Marcel Cachin v..v... Từ
một tiểu trí thức, ông đã bước lên địa vị một cán bộ CS quốc tế, phụ trách vùng
Đông Nam Á.
Trong khi các lãnh tụ CS Á Châu
khác như Roy tại Ấn Độ hay Malaka tại Nam Dương đều bị thất sủng dưới bàn tay
sắt của Staline vì họ có những tư tưởng hướng về chủ nghĩa Dân Tộc và chủ
thuyết Hồi Giáo, thì Hồ Chí Minh vẫn một lòng một dạ chung thủy với Quốc Tế CS.
Dầu không có tư tưởng chính trị
đặc sắc nhưng Hồ Chí Minh đã thành công trong việc:
Dùng ngụy trang dối trá (ngụy chủ nghĩa Dân Tộc);
Lấy giả nhân giả nghĩa (bằng các chiêu bài độc lập, tự do, hạnh phúc, đoàn kết, hòa giải, hòa hợp);
Để giành chính nghĩa (giải phóng dân tộc, giải phóng lao động);
Và cướp chính quyền (để không chia quyền với bất cứ ai).
L.S. Nguyễn Hữu Thống
Nguồn: http://nguyenhuuthong.blogspot.com
|