Bất kể ai quan tâm đến cung cách lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam thời
gian gần đây đều không hề thất vọng với những kết quả của Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ mười của đảng này (diễn ra từ ngày 29/06-04/07/2009)(1). Có
chăng ngạc nhiên nằm ở chỗ ĐCS VN đã tự làm rõ thêm bản chất đối địch với khát
vọng của tầng lớp trí thức và nhân dân, tự làm nổi bật lên diện mạo của kẻ tiếp
tay cho Trung Quốc trong việc trục lợi tài nguyên và thôn tính lãnh thổ quốc
gia.
Hệ thống XHCN đã tự sụp đổ được hai thập niên. Nhân loại tiến bộ khắp
thế giới đã đồng thuận trong việc lên án hậu quả khủng khiếp do Chủ nghĩa Cộng
sản gây ra. Nhưng ĐCS VN vẫn toan tính tiếp tục kìm giữ toàn dân tộc trong ý
thức hệ tệ hại đó một cách vô hạn.
Toàn thể Hội nghị nói trên của ĐCS VN đều không nói gì đến các vấn đề
đang nóng bỏng về chủ quyền quốc gia, sự an nguy của người dân như Bauxite, lao
động Trung Quốc, ngư dân ta bị Trung Quốc bắt giữ ngay trong khi diễn ra hội
nghị. ĐCS VN không chỉ hoàn toàn bất chấp những khuyến cáo của nhân dân đại
chúng, của giới trí thức ở quốc nội hay hải ngoại mà còn tỏ sự khinh mạn với cả
các đề nghị, khẩn cầu của các bậc tiền bối cộng sản.
Rõ ràng ĐCS VN đang thách thức cả dân tộc Việt Nam. Một dân tộc kiêu
hùng chống ngoại xâm có kịp trừ khử những kẻ nội phản trước khi bị đẩy hoàn toàn
vào tay Trung Quốc hay dân tộc đó sẽ chịu chết cùng với sự kiêu hùng của quá
khứ?
Diễn văn bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ
mười (khoá X) của Nông Đức Mạnh (Tổng bí thư): (1)
Thưa các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Sau một tuần làm việc khẩn trương, Hội nghị toàn thể lần thứ mười Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã hoàn thành chương trình đề ra. Hội nghị đã
tập trung trí tuệ, thảo luận sôi nổi, thẳng thắn, dân chủ với tinh thần trách
nhiệm cao, đóng góp nhiều ý kiến phong phú và sâu sắc; đánh giá cao công tác
chuẩn bị, hoan nghênh các ý kiến đóng góp tâm huyết của các tổ chức, tập thể và
cá nhân trong quá trình chuẩn bị các đề án. Hội nghị biểu thị sự đồng tình cao
với các nội dung tiếp thu và giải trình của Bộ Chính trị về Đề cương chi tiết
Báo cáo tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991); Đề cương chi tiết Báo cáo
tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 và
xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; thông qua
định hướng chuẩn bị Đại hội XI của Đảng và đại hội đảng các cấp.
Những nội dung thảo luận và quyết định tại Hội nghị Trung ương lần
này có ý nghĩa hết sức quan trọng, là một bước rất cơ bản chuẩn bị cho Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, đáp ứng những đòi hỏi của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta.
Thưa các đồng chí,
Cương lĩnh là tuyên ngôn chính trị của Đảng, là ngọn cờ chiến đấu của
Đảng và của dân tộc, là nền tảng lý luận, nền tảng tư tưởng và chính trị định
hướng cho mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong từng thời kỳ
cách mạng. Thực hiện Cương lĩnh năm 1930, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu
dài, gian khổ và giành được những thắng lợi vĩ đại : làm cuộc Cách mạng Tháng
Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam; đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ
thực dân, phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm
1991 đến nay tuy mới thực hiện gần được 20 năm nhưng chúng ta cũng có đủ cơ sở
để khẳng định giá trị lịch sử to lớn cả về lý luận, chính trị, tư tưởng và chỉ
đạo hoạt động thực tiễn của nó. Ra đời trong bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, nhiều đảng cộng sản bế tắc, mất phương
hướng, các thế lực thù địch tấn công quyết liệt; ở trong nước, kinh tế - xã hội
khủng hoảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân dao động niềm tin. Cương
lĩnh năm 1991 và các nghị quyết của Đảng theo tinh thần của Cương lĩnh đã định
hướng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững bước đi lên giành được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt là trong Cương lĩnh năm
1991, lần đầu tiên Đảng ta nêu lên tư tưởng Hồ Chí Minh, "lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
của Đảng". Đây là một nguyên lý, một bước phát triển mới về lý luận mà Đảng ta
đã tổng kết từ lịch sử và được thực tiễn chứng minh là hoàn toàn đúng đắn, sáng
tạo và đầy sức sống. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại; là di sản tư tưởng và lý luận vô cùng to lớn, quý giá, mãi
mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.
Trong quá trình tổ chức thực hiện Cương lĩnh, trên cơ sở giữ vững mục
tiêu và những định hướng cơ bản, Đảng ta đã có những bổ sung, phát triển nhận
thức trên nhiều vấn đề, từ những vấn đề chung về chủ nghĩa xã hội, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đến các vấn đề về kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh,
đối ngoại, hệ thống chính trị và về Đảng. Đã từng bước hình thành được những nét
cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề này. Đây cũng là quá
trình Đảng ta tự nâng cao trình độ lý luận của mình thông qua thực tiễn lãnh
đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy : "Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong
kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng,
làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân
chính". Theo tinh thần đó, trong các nhiệm kỳ Đại hội từ Đại hội VII đến nay,
Đảng ta đã bám sát thực tiễn, phát hiện, tìm tòi, nghiên cứu, tổng kết, thử
nghiệm, trên cơ sở tôn trọng quy luật khách quan, bảo đảm phù hợp với ý chí,
nguyện vọng của nhân dân và lợi ích của cách mạng để giải đáp những vấn đề mới
nảy sinh, đồng thời xây dựng nên những nhận thức mới làm giàu cho trí tuệ của
Đảng trong giai đoạn cách mạng mới. Những nhận thức mới đó cùng với kết quả
nghiên cứu, tổng kết việc tổ chức thực hiện Cương lĩnh năm 1991 cần được sử dụng
làm căn cứ, chất liệu để chọn lọc, cân nhắc biên tập, bổ sung vào dự thảo Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển) đưa ra đại hội các cấp để thảo luận, công bố để nhân dân góp ý trước khi
trình Đại hội XI của Đảng.
"Đảng ta là một Đảng cách mạng, một Đảng vì dân, vì nước". Cách mạng
nghĩa là hành động, là đổi mới và phát triển sáng tạo không ngừng. Cương lĩnh bổ
sung, phát triển sắp tới phải hướng đến mục tiêu tổng quát là xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát
triển lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới.
Có thể nói, trong hơn 20 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã
chú trọng tổng kết thực tiễn, đẩy mạnh công tác lý luận, do đó đã từng bước xác
định rõ thêm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ.
Lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đã từng bước hình thành và
không ngừng phát triển. Điều đó không chỉ có ý nghĩa đối với thắng lợi của công
cuộc đổi mới mà còn quan hệ đến vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, bảo đảm cho Đảng ta thực sự là đảng cách mạng chân chính, là đội
tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Thưa các đồng chí,
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 do Đại hội
lần thứ IX của Đảng đề ra được chúng ta triển khai trong 2 kế hoạch 5 năm 2001 -
2005 và 2006 - 2010. Đại hội X của Đảng đã đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch 5
năm 2001 - 2005. Hội nghị Trung ương 9 (khoá X) đã kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực
hiện kế hoạch 2006 - 2010. Điều đặc biệt nổi lên trong thời kỳ này là những khó
khăn, cản trở do tác động to lớn và sâu sắc của cuộc khủng hoảng tài chính -
kinh tế toàn cầu bắt đầu từ những tháng cuối năm 2007 đối với nước ta, buộc
chúng ta phải điều chỉnh một số chỉ tiêu kế hoạch, đồng thời phải tiến hành các
giải pháp tình thế đi đôi với các giải pháp cơ bản để bảo đảm cho kinh tế - xã
hội nước ta tiếp tục ổn định và phát triển.
Còn một năm rưỡi nữa mới kết thúc kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, nhưng
với những kết quả đã giành được, với xu thế vận động và phát triển của tình
hình, với quyết tâm, nỗ lực và sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta, chúng ta có đủ cơ sở để tin tưởng vào việc hoàn thành cơ bản các mục tiêu
nhiệm vụ đã đề ra trong kế hoạch 5 năm 2006 - 2010. Từ đó, có thể đánh giá tổng
quát : Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 -
2010, chúng ta đã tận dụng thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách
thức, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Đất nước đã ra khỏi
tình trạng kém phát triển. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược được thực hiện;
diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa dần được hình thành; quan hệ sản xuất phù hợp hơn.
Hội nhập kinh tế quốc tế và hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực đạt nhiều thành
tựu. Chính trị - xã hội ổn định; độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ được giữ vững. Thế và lực của đất nước vững mạnh thêm nhiều, vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Đã tạo ra môi trường thuận lợi và những
tiền đề quan trọng để tiếp tục đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được còn chưa tương xứng với tiềm năng
của đất nước. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và tính bền vững của nền kinh
tế còn thấp và chậm được cải thiện. Huy động và sử dụng các nguồn lực phát triển
còn hạn chế. Đời sống xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc. Nền tảng để Việt Nam cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nguồn nhân lực, kết cấu
hạ tầng vẫn còn là điểm yếu cản trở tăng trưởng. Khoảng cách phát triển so với
một số nước trong khu vực chậm được thu hẹp.
Với cách nhìn nhận khách quan, đánh giá đúng cả hai mặt thành tựu và
hạn chế, khuyết điểm, những việc làm đúng, làm được và chưa đúng, chưa được,
chúng ta có thể rút ra nhiều bài học thiết thực trên nhiều lĩnh vực, trong đó có
bài học xuyên suốt là luôn luôn coi trọng tính bền vững của sự phát
triển.
Phương hướng, mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 10 năm 2011 - 2020 bước đầu được xác định là : Tiếp tục đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển bền vững để đến năm 2020 nước ta trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ,
đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải
thiện, độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề để phát
triển cao hơn trong các thời kỳ chiến lược sau. Để đạt mục tiêu đó, chúng ta
phải thực hiện đồng bộ nhiều nhiệm vụ, giải pháp, phải xác định rõ các định
hướng phát triển cho các lĩnh vực, các ngành và các vùng, trong đó cần tập trung
sức để từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tập trung vào việc tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành
chính để giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng tốt nhất mọi
nguồn lực; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân; xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, tập trung vào hệ thống giao
thông, hạ tầng đô thị.
Tại Hội nghị này, Trung ương đã thảo luận, nhất trí với nhiều nội
dung Đề cương dự thảo, đồng thời cũng nêu lên nhiều ý kiến phong phú đề nghị
tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi, làm rõ. Đây là cơ sở cho việc chỉ đạo
chỉnh lý, biên tập dự thảo các văn kiện trình Hội nghị Trung ương 11 thông qua
để đưa ra lấy ý kiến đại hội đảng các cấp và lấy ý kiến rộng rãi của nhân
dân.
Thưa các đồng chí,
Hội nghị Trung ương lần này đã thảo luận và thông qua định hướng đại
hội đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng, trong đó làm rõ
bối cảnh, mục tiêu, yêu cầu, chủ đề, nội dung Đại hội, quyết định thành lập các
tiểu ban chuẩn bị cho Đại hội. Đại hội XI của Đảng được tiến hành trong bối cảnh
đất nước ta trải qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 - 2011) và 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới
(1986 - 2011). Đại hội sẽ tiến hành tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội
X, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001 - 2010), 20 năm
thực hiện Cương lĩnh; tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), xác định Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội trong 10 năm tới; phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong 5 năm 2011 - 2015; bầu Ban Chấp hành Trung ương
Đảng nhiệm kỳ khoá XI.
Hội nghị Trung ương đã cho ý kiến về định hướng chủ đề Đại hội XI và
các vấn đề trọng tâm cần đề cập trong các văn kiện, nhất là trong Báo cáo chính
trị : Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, gắn với
việc thực hiện có chiều sâu cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh". Tiếp tục đổi mới toàn diện, tạo chuyển biến về chất lượng và hiệu
quả phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát
triển bền vững; tạo thuận lợi cho việc thực hiện mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như Đại hội X của
Đảng đã xác định. Chăm lo xây dựng, tạo chuyển biến đồng bộ để văn hoá thực sự
trở thành nền tảng tinh thần của xã hội. Giữ vững ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng, tiếp tục nâng cao vị thế của đất
nước trên trường quốc tế. Phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương và sự đồng thuận
xã hội, phát huy hơn nữa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để vượt qua khó
khăn, thách thức, tiếp tục đưa đất nước phát triển theo con đường và mục tiêu
nêu trong Cương lĩnh, Chiến lược.
Hội nghị Trung ương đã quyết định các văn kiện sẽ trình Đại hội XI và
thành lập các tiểu ban chuẩn bị Đại hội toàn quốc của Đảng. Để tiếp tục chuẩn bị
nội dung và tổ chức Đại hội toàn quốc, Hội nghị Trung ương lần này đã quyết định
thành lập tiếp 3 tiểu ban : Tiểu ban Nhân sự; Tiểu ban Tổng kết việc thực hiện
Điều lệ Đảng và bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội
XI. Thời gian để chuẩn bị các văn kiện và các công tác phục vụ Đại hội không còn
nhiều, vì vậy, các tiểu ban Đại hội cần có kế hoạch triển khai hoạt động để đáp
ứng yêu cầu đã được Trung ương thông qua, bảo đảm cho Đại hội toàn quốc của Đảng
thực hiện đúng kế hoạch đề ra.
Theo chủ trương đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua, ngay sau
Đại hội lần thứ XI của Đảng kết thúc, chúng ta sẽ tổ chức bầu cử hội đồng nhân
dân, uỷ ban nhân dân các cấp và bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII. Để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị bầu cử các cơ quan nhà nước, Hội nghị Trung
ương nhất trí tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng vào nửa đầu
tháng 01 năm 2011. Như vậy, sắp tới Trung ương cần có một chương trình làm việc
hợp lý, khoa học, định hướng thời gian đại hội đảng các cấp một cách phù hợp
nhằm bảo đảm chuẩn bị tốt nhất cho việc tổ chức thành công Đại hội XI của
Đảng.
Trên cơ sở góp ý kiến của Trung ương, sau Hội nghị này, Bộ Chính trị
sẽ ra Chỉ thị về đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng. Chủ trương của Trung ương là việc chuẩn bị và tiến hành đại hội
đảng các cấp phải theo tinh thần đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng; phát huy dân chủ, tăng
cường đoàn kết, giữ vững kỷ cương; coi trọng chất lượng, hiệu quả, không phô
trương, hình thức; bảo đảm an toàn, tiết kiệm, nhằm chuẩn bị tốt nội dung văn
kiện Đại hội và chuẩn bị nhân sự cấp uỷ các cấp nhiệm kỳ mới.
Thưa các đồng chí,
Đại hội XI của Đảng là sự kiện có ý nghĩa trọng đại của đất nước; đại
hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XI của Đảng là đợt sinh hoạt chính trị sâu
rộng trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Từ nay đến Đại hội XI, tình hình còn nhiều diễn biến phức tạp, nhất
là diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới sẽ còn
tác động nhiều mặt đến nước ta, đến quá trình chuẩn bị đại hội các cấp. Thời
gian từ nay đến Đại hội XI của Đảng chỉ còn hơn một năm, trong đó những công
việc tập trung nhất đều dồn vào cuối năm 2009 và năm 2010. Đây là thời gian cuối
thực hiện những nhiệm vụ của Đại hội X, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm 2006 - 2010, cũng là thời gian Đảng ta tiến hành đại hội đảng các
cấp đồng thời chuẩn bị tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng, năm có
nhiều ngày kỷ niệm lớn của đất nước.
Quá trình chuẩn bị đại hội đảng các cấp và chuẩn bị Đại hội XI của
Đảng phải kết hợp chặt chẽ với quá trình thực hiện các nhiệm vụ của Đại hội X,
coi việc hoàn thành các nhiệm vụ của Đại hội X và nhiệm vụ của kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 là nội dung quan trọng nhất, chỉ có làm
tốt điều đó thì chúng ta mới có thể tổ chức tốt đại hội đảng các cấp, hoàn thành
nhiệm vụ đề ra.
Thưa các đồng chí,
Những nội dung thảo luận và kết luận tại Hội nghị Trung ương lần này
là cơ sở rất quan trọng để triển khai chuẩn bị đại hội các cấp tiến tới Đại hội
toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Tôi đề nghị các đồng chí Uỷ viên Trung ương và
các cấp uỷ đảng từ Trung ương đến cơ sở quán triệt tinh thần này để tổ chức thực
hiện theo đúng tinh thần chỉ thị của Bộ Chính trị. Không vì lý do chuẩn bị và
tiến hành đại hội đảng bộ mà lơi lỏng các nhiệm vụ trước mắt, cả về kinh tế - xã
hội, an ninh, quốc phòng và các lĩnh vực khác. Từ Ban Chấp hành Trung ương đến
lãnh đạo các ngành, các cấp phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động trong
mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Phải khắc
phục tình trạng có những cán bộ càng gần đến Đại hội càng né tránh, ngại va
chạm, không dám chịu trách nhiệm trước công việc được giao. Chính trong lúc này,
cán bộ, đảng viên càng phải tỏ rõ tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước nhân
dân. Đây cũng là dịp để cán bộ, đảng viên và nhân dân có thêm cơ sở để đánh giá,
lựa chọn đội ngũ cán bộ của mình. Phải coi việc tiến hành đại hội các cấp là một
cơ hội, một động lực để thúc đẩy các nhiệm vụ trước mắt và lấy kết quả thực hiện
các nhiệm vụ này để góp phần bảo đảm thành công của đại hội các cấp cũng như Đại
hội toàn quốc của Đảng.
Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố bế mạc Hội nghị lần thứ mười Ban
Chấp hành Trung ương khoá X.
Xin trân trọng cảm ơn.
Thông báo Hội nghị lần thứ mười Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khoá X)
(ĐCSVN)- Chiều nay, sau một tuần làm việc nghiêm túc, Hội nghị lần
thứ mười Ban chấp hàng Trung ương Đảng khoá X đã bế mạc tại Hà Nội. Dưới đây là
toàn văn Thông báo Hội nghị.
Thực hiện Chương trình làm việc toàn khoá, từ ngày 29 tháng 6 đến 04
tháng 7 năm 2009, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã
họp Hội nghị lần thứ mười, thảo luận, quyết định nhiều vấn đề quan trọng để
chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Đồng chí Tổng Bí thư
Nông Đức Mạnh chủ trì, khai mạc và bế mạc Hội nghị.
Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận về Đề cương chi tiết Báo cáo
tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991); Đề cương chi tiết Báo cáo tổng
kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 và xây
dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; định hướng chuẩn
bị Đại hội XI của Đảng và đại hội đảng các cấp; thành lập các tiểu ban chuẩn bị
Đại hội XI và một số vấn đề quan trọng khác.
1- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được Đại hội VII của Đảng thông qua năm 1991 có giá trị to lớn cả về lý
luận, chính trị, tư tưởng và chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Ra đời trong bối cảnh
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, nhiều đảng cộng sản bế
tắc, mất phương hướng, các thế lực thù địch tấn công quyết liệt; ở trong nước,
kinh tế - xã hội khủng hoảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân dao động
niềm tin, Cương lĩnh năm 1991 và các nghị quyết tiếp sau của Đảng theo tinh thần
Cương lĩnh đã định hướng cho toàn Đảng, toàn dân vững bước đi lên giành được
những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Từ sau
Đại hội VII đến nay, Đảng ta đã có những bổ sung, phát triển nhận thức trên
nhiều vấn đề của Cương lĩnh. Đã từng bước hình thành được trên những nét cơ bản
một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, góp phần bổ sung, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trên những vấn đề này. Tuy nhiên, do tình hình thế
giới và trong nước những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX và nhận thức ở thời
điểm đó, một số vấn đề trong Cương lĩnh năm 1991 đến nay cần được bổ sung, phát
triển. Ngày nay, tình hình thế giới và trong nước đã và đang có nhiều biến đổi
to lớn, sâu sắc, xuất hiện nhiều vấn đề mới cần được giải đáp, đáp ứng yêu cầu
phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Đại hội X đã quyết định "Sau Đại
hội X, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh làm nền tảng
chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong
quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội".
Việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 được thực hiện theo tinh
thần tiếp tục đổi mới, bám sát thực tiễn của đất nước và thời đại, kế thừa những
nội dung vẫn còn nguyên giá trị của Cương lĩnh năm 1991; bổ sung những vấn đề đã
được các Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị (từ khoá VII đến nay)
kết luận, những nội dung đã rõ, đã chín, được thực tiễn chứng minh là đúng; sửa
chữa, bổ sung hoặc viết lại những điểm trong Cương lĩnh đến nay không còn phù
hợp. Cương lĩnh là tuyên ngôn chính trị của Đảng, mang tầm định hướng chiến lược
về con đường phát triển của đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
là ngọn cờ chiến đấu của Đảng và dân tộc ta trong sự nghiệp xây dựng đất nước
từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội; là nền tảng lý luận, nền tảng tư tưởng và
chính trị, định hướng cho mọi hoạt động của chúng ta hiện nay cũng như trong
những thập kỷ tới. Do đó, Cương lĩnh phải nêu được những quan điểm cơ bản về xã
hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta cần xây dựng; chỉ ra mục tiêu tổng quát khi kết
thúc thời kỳ quá độ và đến giữa thế kỷ XXI; đề ra những quan điểm, đường lối và
định hướng lớn để thực hiện các mục tiêu đó. Cương lĩnh phải có tầm khái quát
cao, không đi vào những nội dung quá chi tiết và cụ thể.
Qua thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương nhất trí với nhiều nội dung
trong Đề cương chi tiết, cách tiếp cận, tư tưởng chỉ đạo, các nội dung cơ bản
như : Tổng quát quá trình cách mạng Việt Nam; giá trị to lớn và một số hạn chế
của Cương lĩnh năm 1991; quá trình phát triển nhận thức và tổ chức thực hiện
Cương lĩnh năm 1991 trong gần 20 năm qua trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn
hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính
trị; những bài học kinh nghiệm; những quan điểm lớn làm cơ sở cho bổ sung, phát
triển Cương lĩnh trên các vấn đề : Tình hình thế giới, những đặc điểm, xu thế
lớn của thời đại; về thời kỳ quá độ và đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta xây dựng; những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc; mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ và đến
giữa thế kỷ XXI; định hướng lớn về phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước; xây dựng và từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ gắn với hội nhập kinh tế quốc tế; định hướng lớn về phát triển văn
hoá, xây dựng con người Việt Nam; về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học,
công nghệ và môi trường; định hướng lớn về quốc phòng, an ninh và đối ngoại; về
xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân; về Đảng Cộng sản Việt Nam và công tác xây dựng Đảng.
Trên một số vấn đề, trong quá trình thảo luận vẫn còn có ý kiến khác
nhau hoặc cần được làm rõ, Ban Chấp hành Trung ương quyết định giao cho Bộ Chính
trị chỉ đạo tiếp tục nghiên cứu, cân nhắc trình Ban Chấp hành Trung ương thảo
luận trong các hội nghị tới.
2- Về Đề cương chi tiết Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 và xây dựng Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận, phân
tích, đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 -
2010, khẳng định trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, nhất là
cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu từ những tháng cuối năm 2007, sự
chống phá của các thế lực thù địch, thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra; nhiều
yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội chậm được khắc phục, nhưng với sự nỗ
lực phấn đấu cao của toàn Đảng, toàn dân, chúng ta đã đạt được những thành tựu
rất quan trọng : Tiềm lực kinh tế của đất nước tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình
trạng kém phát triển; nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược đã được thực hiện;
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình
thành; văn hoá, xã hội đạt được những kết quả nhất định, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân được nâng lên, một số mặt đạt trình độ của các nước phát
triển trung bình; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng và đạt được
nhiều kết quả; giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có một số mặt chuyển
biến tích cực; môi trường sống được quan tâm và có mặt được cải thiện; hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên; cải cách hành chính được đẩy mạnh;
phòng, chống tham nhũng, lãng phí có kết quả bước đầu; quốc phòng, an ninh được
tăng cường; quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế của nước ta trên trường quốc
tế được nâng cao, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đất nước. Bên cạnh
thành tựu và ưu điểm, Ban Chấp hành Trung ương cũng thảo luận làm rõ những mặt
hạn chế, yếu kém : Những kết quả đạt được còn chưa tương xứng với tiềm năng của
đất nước, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế còn thấp; các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc; kết cấu hạ tầng phát
triển chậm, thiếu đồng bộ đang cản trở sự phát triển; thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển; văn hoá, xã hội
nhiều mặt còn hạn chế, một số vấn đề bức xúc chậm được giải quyết; chất lượng
nguồn nhân lực còn thấp; giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự
là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường còn nhiều yếu kém, là thách thức lớn
trong quá trình phát triển; quản lý và điều hành của Nhà nước còn nhiều bất cập.
Những hạn chế, yếu kém này do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó,
nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, Ban
Chấp hành Trung ương đã thảo luận và nhất trí với nhiều nội dung trong Đề cương
chi tiết : Về bối cảnh tình hình quốc tế và đất nước trong những năm tới, về
quan điểm, mục tiêu chiến lược và những khâu đột phá, về định hướng phát triển
các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng
giao thông, phát triển hài hoà, bền vững các vùng và đô thị, hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực; phát triển toàn diện văn hoá, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế, phát
triển sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân, đổi mới
toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh phát
triển khoa học và công nghệ, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả
kinh tế - xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, chủ động ứng phó với
biến đổi khí hậu, giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ,
bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại,
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa hiệu lực, hiệu quả, đủ sức quản lý, điều hành thực hiện thắng
lợi Chiến lược.
Trong quá trình thảo luận, trên một số vấn đề vẫn còn ý kiến khác
nhau hoặc cần được làm rõ, Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị chỉ đạo
tiếp tục nghiên cứu, cân nhắc, trình Ban Chấp hành Trung ương thảo luận trong
các hội nghị tiếp theo.
3- Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận và quyết định về định hướng
chuẩn bị Đại hội XI của Đảng và đại hội đảng các cấp, phân tích bối cảnh Đại hội
XI, xác định yêu cầu đặt ra đối với Đại hội XI và việc chuẩn bị các văn kiện
phải trên tinh thần tranh thủ tận dụng tốt nhất mặt thuận lợi, chủ động vượt qua
khó khăn, thách thức, xác định các mục tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ Đại hội XI
một cách tích cực, vững chắc, tạo thuận lợi để thực hiện thắng lợi các mục tiêu
của các giai đoạn tiếp theo sẽ được xác định trong Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011 - 2020); bầu Ban
Chấp hành Trung ương khoá mới có đủ trí tuệ, phẩm chất để kế thừa, phát triển
những kết quả đã đạt được trong các nhiệm kỳ trước, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI. Đồng thời, tập trung chỉ đạo thực hiện tốt các
mục tiêu, nhiệm vụ năm 2009, 2010, cố gắng phấn đấu đạt mức cao nhất các mục
tiêu mà Nghị quyết Đại hội X đã đề ra.
Ban Chấp hành Trung ương đã cho ý kiến định hướng về chủ đề Đại hội
XI và các vấn đề trọng tâm cần đề cập trong các văn kiện, nhất là trong Báo cáo
chính trị là : Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
gắn với thực hiện có chiều sâu cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”. Tiếp tục đổi mới toàn diện, tạo được chuyển biến về chất lượng
và hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì
tăng trưởng hợp lý; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển bền vững;
tạo thuận lợi cho việc thực hiện mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Chăm lo xây dựng, tạo chuyển biến
đồng bộ về văn hoá để văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội. Giữ vững
ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, chủ quyền quốc gia, sự thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng, nâng cao vị thế đất
nước trên trường quốc tế. Mở rộng dân chủ, coi trọng kỷ luật, kỷ cương, tạo sự
đồng thuận cao trong xã hội; tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để
vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục phát triển đất nước theo con đường và
mục tiêu nêu trong Cương lĩnh và Chiến lược.
Ban Chấp hành Trung ương quyết định các văn kiện trình Đại hội XI gồm
: Báo cáo chính trị (trong đó bao gồm cả phần phương hướng, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm và công tác xây dựng Đảng, không trình Đại hội báo cáo
riêng về những vấn đề này); Báo cáo bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991; Báo
cáo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; Báo cáo kiểm điểm
sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương; Báo cáo bổ sung, sửa đổi Điều
lệ Đảng.
Tại Hội nghị Trung ương 4 (khoá X), Ban Chấp hành Trung ương đã thành
lập 2 tiểu ban : Tiểu ban Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 và bổ
sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ mới (giao Tiểu ban
này đồng thời làm nhiệm vụ chuẩn bị Báo cáo chính trị); Tiểu ban Tổng kết thực
hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 và xây dựng Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020. Tại Hội nghị lần này, Ban
Chấp hành Trung ương quyết định bổ sung một số đồng chí từ Tiểu ban Chiến lược
vào Tiểu ban Cương lĩnh, đồng thời thành lập tiếp 3 tiểu ban : Tiểu ban Nhân sự;
Tiểu ban Tổng kết thực hiện Điều lệ Đảng và bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; Tiểu
ban Tổ chức phục vụ Đại hội.
Ban Chấp hành Trung ương quyết định thời gian tổ chức Đại hội XI của
Đảng vào nửa đầu tháng 01 năm 2011. Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá X) cũng thảo luận, cho ý kiến một số nội dung quan trọng
khác.
Ban Chấp hành Trung ương kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
phát huy ưu điểm, thành tựu đã đạt được trong hơn nửa đầu nhiệm kỳ khoá X vừa
qua; khắc phục những khuyết điểm, yếu kém, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội X, trước mắt là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội năm 2009, tích cực chuẩn bị cho Đại hội XI của Đảng và đại hội đảng
các cấp, đưa đất nước tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.
(1)Nguồn: www.cpv.org.vn
Đối Thoại
|