Lê Vĩnh
Tháng 6 năm 2004, hiệp định vịnh Bắc Bộ
được quốc hội Cộng Sản Việt Nam phê chuẩn và có hiệu lực thi hành, cùng lúc với
hiệp định đánh cá chung giữa Việt Nam và Trung Quốc. Các quan chức Cộng sản
Việt Nam lúc đó đã không ngớt lời tán tụng cái gọi là “sự kiện
có ý nghĩa rất quan trọng đối với Việt Nam cũng như đối với quan hệ hai nước Việt – Trung“ của hai hiệp ước này. Nhưng cũng kể từ đó thì ngày càng có
nhiều ngư thuyền, ngư dân ta bị “tàu lạ” rượt đuổi, bắt bớ; bị cướp bóc ngư cụ
ngư sản, thậm chí bị bắn giết ngay trên những vùng biển của đất nước mình. Đến
tháng 6 năm nay, tức là 5 năm sau những lời tán tụng hồ hỡi vừa nêu trên, thì
phần lớn ngư dân miền Trung Việt Nam đã không dám ra khơi đánh cá xa bờ vì sợ
bị tàu Trung Quốc đâm chìm hoặc bị bắt đòi tiền chuộc.
Trước những hành vi ngang ngược và tàn
bạo trong chủ trương lấn chiếm của Bắc Kinh như vừa kể, nhà cầm quyền Hà Nội đã
làm gì để bảo vệ ngư dân và chủ quyền quốc gia, vốn là nhiệm vụ chính yếu của
một nhà nước. Ngoài những lời tuyên bố chiếu lệ của phát ngôn viên bộ ngoại giao
Lê Dũng (vốn đã bị Trung Quốc vứt vào sọt rác từ lâu), và lí nhí XIN Trung Quốc
CHO ngư dân Việt Nam được đánh cá trên vùng biển của Việt Nam; họ đã chẳng làm
gì cả. Thậm chí không dám dùng đến những nguyên tắc ngoại giao căn bản để chính
thức phản đối, hoặc dùng đến những cơ chế quốc tế sẵn có để đa phương hoá vấn
đề, hầu nếu không giải quyết được, thì ít ra cũng tìm thêm sự hậu thuẫn của
những quốc gia cùng có mối lo chung về hiểm hoạ bành trướng của Trung Quốc. Tại
sao Hà Nội chấp nhận im tiếng như vậy?
Hà Nội vẫn thường khoả lấp cho sự hèn
hạ của họ là phải khéo léo ngoại giao, không nên chọc giận và đối chọi với sức
mạnh của Trung Quốc. Khi khoả lấp như vậy, Hà Nội quên rằng trong suốt giòng
lịch sử chưa bao giờ Việt Nam mạnh hơn Trung Quốc, nhưng tổ tiên Việt Nam chưa
bao giờ hèn hạ, quỵ luỵ nước Tàu như hiện nay. Hơn thế nữa, trong cuộc chiến
Việt Nam mấy chục năm trước, Cộng sản Việt Nam không hề mạnh hơn Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà. Thế nhưng tại
sao họ vẫn quyết đánh cho đến người Việt Nam cuối cùng, cho dù phải “đốt cả dãy Trường Sơn”?
Tệ hơn nữa, lãnh đạo đảng CSVN ngày nay
còn cố tình xóa hoặc làm nhòa bớt đi những hy sinh của chính người Việt trong
các cuộc chống quân Trung Quốc xâm lăng trong 30 năm qua. Trong trận hải chiến
Trường Sa 21 năm về trước, hơn 60 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam đã nằm xuống trong
lòng biển mẹ trong nhiệm vụ thiêng liêng bảo vệ tổ quốc. Dù rằng sau đó phía
Trung Quốc đã phổ biến đủ loại tài liệu, phim ảnh trong mục đích làm nhục Hải
Quân và dân tộc Việt Nam. Thế nhưng cho đến nay, trong mọi tài liệu, báo cáo, sử
sách; điển hình là quyển “Lịch Sử Hải Quân Nhân Dân Việt Nam 1955-2005” của Nhà
Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, lãnh đạo Đảng vẫn không dám cho ghi đích danh kẻ
xâm lược là Trung Quốc, mà phải đổi thành “hải quân lạ”, “đối phương”, “tàu
chiến nước ngoài”,... Phải chăng, khi không xác định rõ kẻ thù, giới lãnh đạo
Hà Nội đồng thời cũng không muốn xác định rõ mục tiêu bảo vệ tổ quốc của trận
chiến? Hay nói cách khác, phải chăng đây là cách giới lãnh đạo đảng Cộng Sản
Việt Nam phủ nhận sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam để làm vừa lòng quan thầy phương Bắc? Và còn nhiều thí dụ
khác nữa quanh việc Hà Nội xóa đi nhiều khu mộ binh sĩ Việt Nam dọc theo biên giới Việt-Trung trong lúc Bắc Kinh cho xây
đủ loại cổng tưởng niệm. Tại sao Hà Nội chấp nhận tự muối mặt như vậy?
Tương tự, trong những vụ ngư thuyền
Việt Nam bị “tàu lạ” húc chìm; bị hải tặc “nước lạ” cướp bóc ngư cụ, ngư sản;
bắt bớ đòi tiền chuộc bằng đồng Nhân dân Tệ của “nước lạ” v.v... đài truyền
hình “nước lạ” huyênh hoang chiếu cảnh mấy chiếc “tàu lạ” to lớn hùng hổ bao
vây rượt đuổi chiếc thuyền nhỏ bé đáng thương của ngư dân ta; hình ảnh ngư dân
ta van lạy lính “nước lạ” (chỉ thiếu hình ảnh xác một ngư dân ta ướp đá được
đưa về bến là không được họ chiếu lên)... Tức là kẻ cướp đã tự nhận họ là quân
đi ăn cướp... Thế nhưng báo đài của nhà nước vẫn im thin thít. Thoang thoảng
nhắc đến thì phải gọi là “tàu lạ”. Trong khi công an thì khoác lác về tài bắt
“khủng bố”, như thể không cái gì tránh khỏi được sự... ”nhanh nhạy” của lực
lượng an ninh; nhưng chưa bao giờ cảnh sát biển hay lực lượng phòng duyên bắt
được một “tàu lạ” nào, khi mà chúng nhan nhản ở ngoài khơi để thường trực ức
hiếp ngư dân ta. Trong các bài báo lớn tiếng tuyên bố công an hết lòng bảo vệ
ngư dân, người ta chỉ thấy những tấm hình của các quan chức công an ĐỨNG TRÊN
BỜ. Tại sao lãnh đạo Đảng lại giao việc bảo vệ ngư dân cho công an trên bộ chứ
không giao cho hải quân?
Đã đành việc lãnh đạo Đảng CSVN vô cùng
hèn yếu trước Trung Quốc là một điều hiển nhiên không thể chối cãi, nhưng nhìn
cách họ đối xử với dân tộc Việt Nam thì hầu hết các tổ chức nhân quyền và chính
phủ thế giới đều phải kinh ngạc về mức độ hung bạo và ác hiểm của họ, đặc biệt
là trong những vụ việc liên quan đến Trung Quốc. Công an CSVN thẳng tay đàn áp
sinh viên, thanh niên khi những trái tim trẻ này biểu tình để bày tỏ lòng yêu
nước. Công an theo dõi thường xuyên và bắt bớ, trù dập bất cứ ai động đến Bắc
Kinh, ngay cả khi họ phản đối tại nhà riêng: Việc cô Phạm Thanh Nghiên toạ
kháng tại nhà với biểu ngữ “Hoàng Sa – Trường Sa của Việt Nam” là lập tức thành
người có tội; việc cô Quỳnh Như mặc áo mang biểu hiệu yêu nước cũng bị xem là
có tội; mà trong đó công an phải đặc biệt đưa hai chuyên viên Trung Quốc đến để
xử lý dữ kiện trong máy vi tính của Quỳnh Như hầu.... “bảo vệ an ninh cho Việt Nam”.... Còn nhiều, nhiều nữa những dẫn chứng nhục nhã, hèn hạ
tương tự. Nhưng lý do nào khiến cộng sản Việt Nam hành xử hèn hạ và đốn mạt như vậy?
Sự lên tiếng của ông Dung Danh Dy trong
cuộc phỏng vấn ngày 2 tháng 7 vừa qua trên đài Á Châu Tự Do đã hé mở cho người
ta thấy phần nào những nguyên nhân này.
Trong cuộc phỏng vấn này, ông Dương
Danh Dy đã cho biết, lãnh đạo đảng cộng sản Việt nam đã có một số điều hứa
về biển Đông với Trung Quốc. Mà nguyên nhân giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đưa
ra lời hứa là do họ dốt, không biết gì cả (*) (những thậm từ ’dốt’, ’không
biết gì cả’ là nguyên văn lời của ông Dương Danh Dy). Ông Dương Danh Dy là
một nhà ngoại giao lão thành, từng là đại sứ của Hà Nội tại Bắc kinh, cho biết
thêm rằng, ông biết rất rõ những điều hứa đó, nhưng lại không tiện nói ra trong
cuộc phỏng vấn vừa nêu.
Đến đây thì hẳn người ta đã hiểu vì
nguyên nhân nào mà lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam lại nhu nhược, hèn hạ đến thế. Sự tiết lộ cuả ông Dương
Danh Dy cũng giúp giải toả phần nào những nghi vấn về sự thậm thụt ký kết các
hiệp ước biên giới trên bộ và trên biển giữa Cộng Sản Việt Nam với Trung Quốc,
mà giới quan sát cho rằng, có thể còn có những mật ước hoặc điều kiện gì phía
sau, để đến nỗi gần 10 năm sau khi ký kết mà Hà Nội vẫn chưa đưa ra được các
bản đồ liên hệ, lẽ ra phải đi kèm với các hiệp ước. Và đến đây thì người ta
cũng hiểu tại sao trong khi đồng bào ngư dân đang triền miên bị Trung Quốc ức
hiếp, bắt bớ, bắn giết, mà giới lãnh đạo đảng lại muối mặt liên tục sang Tàu để
tươi cười ôm hôn thắm thiết các đồng chí cộng sản của họ.
Một đất nước bị một đảng độc quyền cai
trị, mà thành phần lãnh đạo của đảng đó vừa nhu nhược, hèn nhát, ngây thơ với
ngoại bang nhưng lại vô cùng hung tợn, ác hiểm, thủ đoạn với dân tộc, thì tương
lai của nước đó như thế nào thiết tưởng đã quá rõ.
Trong cuộc toạ đàm về Biển Đông ở Sài
Gòn vừa qua, Giáo sư Nguyễn Nhã đã khẩn thiết nói lên nhu cầu về sự đồng thuận
dân tộc, nếu không thì viễn ảnh Việt Nam trở thành Tây Tạng hay Tân Cương chẳng chóng thì chầy sẽ
trở thành hiện thực... Sự đồng thuận của mọi thành phần dân tộc cả ở trong lẫn
ngoài nước trước hiểm hoạ Trung Quốc là điều đang và chắc chắn sẽ hình thành.
Vấn đề còn lại là, với một đảng và nhà nước cai trị quốc gia, có thành phần
lãnh đạo đang bị Trung Quốc nắm thóp, thỉnh thoảng bị Bắc Kinh bắt chẹt, bằng
cách dọa dẫm sẽ công bố những điều mà do sự ngu dốt giới lãnh đạo Hà Nội đã
hứa... thì liệu rằng đảng đó và nhà nước đó có đồng thuận được với dân tộc hay
không? Và ngay cả khi họ hồi tâm có ý hướng muốn đồng thuận, thì liệu rằng Bắc
Kinh có cho phép họ đồng thuận với dân tộc, để Việt Nam có cơ may trở nên hùng
cường, làm đối thủ cản trở mộng bành trướng của họ hay không?
Trả lời nhưng câu hỏi vừa nêu, người
Việt Nam sẽ thấy rất rõ ưu tiên của dân tộc là gì, để đất nước
không trở thành một Tây Tạng hay Tân Cương sau này.
(*)
Nguyên văn lời ông Dương Danh Dy: “Chúng ta có một số điều hứa. Tôi biết rất
rõ những điều hứa này của ta. Ta có những điều hứa trong vấn đề Biển Đông. Cái
hứa của chúng ta lúc đó thì có những nguyên nhân là do chúng ta bênh Trung
Quốc, có những nguyên nhân do chúng ta dốt, chúng ta không hiểu gì cả.”. (chữ
’chúng ta’ ở đây là giới lãnh đạo đảng CSVN) Nguồn: Việt Tân
|